Sunday, November 11, 2007

TÂM TÌNH CỦA MỘT GIÁO GIÀ, HƯU NON (bài 1)


Vũ Lưu Xuân


Tôi là một giáo già (ngoài sáu chục), hưu non (từ tuổi bốn mươi). Tuy đã hơn hai mươi năm rời xa môi trường sư phạm, nhưng lạ thật, nhiều đêm tôi vẫn nằm mơ thấy mình đứng lớp. Hôm nay tôi chợt ao ước được sống lại không khí ngày nào, nhưng không phải để dạy dỗ – với thời gian, chữ nghĩa của tôi đã rơi rụng hết rồi - mà để trò chuyện, tâm tình, tâm tình với những học sinh đã từng đào tạo ngày nào, và đặc biệt với những học sinh mà năm tôi bỏ nghề, chưa kịp xuất hiện dưới bóng mặt trời, với các em, dù không quen biết, tôi vẫn xin được tâm tình bằng tư cách của một ông thầy. Tâm tình tự thân là một trao đổi thiên về tình cảm, chủ quan, rất có thể sai, lộn xộn, thiếu hệ thống, nhiều khi không đầu, không đuôi, nhưng tuyệt đối không giả trá. Đến với các em, tôi sẽ trút bỏ mọi vỏ bọc, mọi mặt nạ, thứ phương tiện thường được sử dụng để chiếm phần hơn khi phải đối đầu với tha nhân. Quan hệ thầy trò, dứt khoát không phải là quan hệ đối đầu.

Ngày bước vào trường Đại học sư phạm, tôi mơ ước có cơ hội trao cho các em một mớ kiến thức làm phương tiện tiến thân, phục vụ, đồng thời - và cũng rất quan trọng - gợi mở cho các em một cung cách sống, để ngẩng mặt làm người. Đó không phải là hoài bão của riêng tôi, mà là tâm huyết chung của mọi ông thầy yêu nghề và có lương tâm.

Hồi còn đi dạy, tôi rất buồn khi nghe người ta gọi giáo viên là chiếc máy cái. Mỹ từ ấy dường như muốn đề cao vai trò của người thầy. Quan trọng lắm chứ, chiếc máy cái sản xuất ra những chiếc máy con và hàng loạt sản phẩm cho xã hội. Nhưng dù chất lượng cao chăng nữa, đó vẫn là thứ sản phẩm hàng loạt, rập khuôn. Tệ hơn, quan hệ giữa máy cái, máy con và sản phẩm, được hiểu là quan hệ giữa thầy và trò, ở đây, là thứ quan hệ vô tính, không dành chỗ cho tình cảm chen vào. Như thế, với cách nhìn này, chúng ta đang khởi đi từ một nền giáo dục hoàn toàn vắng bóng con người. Chúng ta đang tiến tới việc đào tạo không phải những con người như một chủ thể tự do, có cá tính, có kiến thức, biết độc lập tư duy và đồng thời cũng có những cảm xúc, ray rứt riêng tư.

Trong 16 năm giảng dạy, dù rất yêu nghề, tôi vẫn thường lưu ý học sinh: không một ông thầy nào dạy giỏi cho bằng quyết tâm tự học. Tự học đòi hỏi một phương pháp và thời gian trống. Nhà trường ngày nay có khi nào nghĩ đến việc rèn luyện cho các em kỹ năng và hứng thú tự học hay không? Nhà trường ngày nay có dành cho các em khoảng thời gian trống đủ để tự học hay không? Hay nhà trường, vì quá lo chạy theo chỉ tiêu, thành tích, đã tạo cho các em thói quen học tủ, học vẹt, học với mục đích thi đậu, chứ không phải học để làm người, do đó, đã nhìn các em như những đứa trẻ chung thân ấu trĩ, cần mớm từng câu, từng chữ, tức là phải học cho thật kỹ những bài mẫu, phải thường xuyên kiểm tra, phải răn đe, phải nhồi nhét kiến thức vào đầu, qua những tiết học thêm, dạy thêm, truy bài ngoài giờ chính khóa, đặc biệt với học sinh lớp 12, những con người đang từng bước chuẩn bị trưởng thành. Các em bị vây bủa trong một bầu không khí quá sức căng thẳng, khẩn trương, làm như thể bằng cấp là toàn bộ ý nghĩa của cuộc sống. Bầu không khí ấy làm thui chột con người. Tôi biết một trường công lập được chỉ định làm thí điểm phân ban, đã xếp thời khóa biểu 45 tiết chính khóa một tuần. Những thí điểm kiểu này không rõ sẽ tồn tại được bao lâu. Trong vòng mười năm nay, việc thí nghiệm, thay đổi chương trình học, thay đổi chính sách tuyển sinh, thay đổi sách giáo khoa, thay đổi mô hình giáo dục… xảy ra thường xuyên như cơm bữa, người ta không hề quan tâm đến liên tục tính của giáo dục. Nếu quan niệm nhà trường như một thí điểm, con người như một vật thí nghiệm, cứ mạnh dạn làm đi, sai đâu sửa đó , tức là các vị gánh trọng trách hoạch định đường lối đã khinh xuất, vi phạm nguyên tắc sư phạm. Cái sai trong giáo dục, có thể di lụy tới một vài thế hệ.

Tôi có dịp trò chuyện với một ông thầy chấm thi đại học môn văn. Theo ông, việc chấm văn ngày nay rất công bằng, rành rọt, mỗi bài luận gồm bao nhiêu phần, bao nhiêu ý, đều có thang điểm chi ly, chuẩn xác, chỉ cần trình bày đầy đủ các ý, học sinh sẽ được điểm cao. Minh bạch thật, nhưng là cái minh bạch lạnh lùng của bộ môn khoa học tự nhiên, hoàn toàn xa lạ với tư duy văn học, mang dấu ấn con người. Ở đây, lối suy nghĩ độc lập, phi truyền thống không còn đất đứng, đặc biệt trong hệ thống thi cử mang nặng tính chất từ chương, nhai văn, nhá chữ. Đó là hệ quả tất yếu của thứ quan niệm những chiếc máy cái đẻ ra những chiếc máy con. Tất cả phải tuân thủ thứ trật tự, khuôn phép đã được lập trình. Người lớn giáo dục các em vậy đó, họ dạy các em khen chê rập khuôn như những con vẹt, nhưng lại đòi hỏi các em phải biết phát huy sáng kiến, phải biết tư duy độc lập, sáng tạo. Những phẩm chất ấy từ đâu mà đến? Chúng ta đang chết ngộp giữa những khẩu hiệu rất đẹp, rất kêu, nhưng vô nghĩa, trá ngụy vì không thực sự được quan tâm.

Môi trường giáo dục ngày nay đặt mọi cá nhân trong tâm trạng thường xuyên lo âu. Giám đốc Sở lo, Hiệu trưởng lo, giáo viên lo, phụ huynh lo, rồi học sinh càng lo. Nhưng lo, rất lo, lo cuống quýt, không phải để đào tạo thế hệ trẻ tương lai của đất nước, mà lo vì thành tích, chỉ tiêu. Xin dẫn chứng:

Báo CG&DT số 1228, độc giả Hồng Lam viết: Ở vùng sâu vùng xa, các em học sinh lớp 1,2,3 dù học có thế nào, cũng được lên lớp, dù có trường hợp phụ huynh “ xin cho lưu ban” để có sự chuẩn bị các lớp đầu tiên cho tốt hơn, vẫn không được! Hỏi ra mới biết đây là quy định của phòng GD, bởi học sinh phải lên trên lớp ba mới được công nhận đã “xóa mù chữ”.

Đó là chuyện năm 1999 ở vùng sâu vùng xa. Tới 2004, tại một tỉnh duyên hải, tình trạng càng đáng sợ hơn. Báo Thanh Niên ngày 5.11.2004 cho biết: có học sinh học đến lớp 6 vẫn không… biết chữ… chuyện hoàn toàn có thật và không phải cá biệt… nhiều trường tiểu học cố gắng bằng “mọi giá” phải “duy trì” thành tích tốt nghiệp tiểu học 100%. Đó là chuyện của một tỉnh duyên hải, nhưng còn cả nước thì sao? Tại sao cái tệ trong giáo dục lại càng lúc càng tệ hơn? Những tiếng hô đầy khí thế “Chăm phần chăm”, chỉ nên xuất hiện trong những cữ nhậu phè phỡn, thì nay nó được sử dụng lan tràn trong học đường. Để đạt thành tích “chăm phần chăm” đó, có bao nhiêu học sinh, thuộc loại kém, cá biệt, lẽ ra cần được quan tâm nhiều hơn, thì đã bị hy sinh, bị gạt ra, bị loại trừ. Để đạt thành tích “chăm phần chăm” đó có bao nhiêu tính toán, thủ đoạn vặt đã được sử dụng, thứ thủ đoạn khiến một nhà giáo chân chính phải đỏ mặt vì xấu hổ. Câu châm ngôn Tất cả vì học sinh thân yêu, có lẽ phải được cải biên thành Tất cả vì chiếc ghế thân yêu.

Đọc bài Nào, ta lại thi đua theo phong trào. (CG&DT-số 1482), của anh Khổng Thành Ngọc, tôi cảm nhận được những bực dọc, phẫn nộ, cay đắng của một nhà giáo thấy rõ điều sai, mà đành bất lực, vì tất cả đều bị bóp đến nghẹt thở trong một cơ chế phi lý. Theo anh Ngọc, Đã bao lâu nay, giáo viên bị chìm ngập trong vô số cuộc thi đua… thi đua chồng chéo lên nhau, kín hết thời giờ của giáo viên… Tính vụ hình thức nảy sinh từ đó… sức ỳ hiện nay của ngành giáo dục vì chưa nhận thức được những tác hại của thói vụ hình thúc, chạy theo phong trào, đuổi bắt thành tích “ảo”. Tôi tự hỏi, chừng nào thầy giáo Ngọc nói riêng và các nhà giáo nói chung mới hết ưu tư? Ai sẽ trả lời cho vấn nạn này?

Phải chăng chính môi trường giáo dục rất căng thẳng và cũng rất gần với không khí chợ búa, đã khiến một vài thầy cô mất bình tĩnh, đánh đập học sinh một cách vô lối, đồng thời cũng có những học sinh, cha mẹ học sinh, xông vào lớp hoặc chặn đường đánh thầy cô. Khi dùng hai chữ chợ búa gắn với môi trường giáo dục, tôi rất đau lòng, nhưng biết dùng từ gì chính xác hơn. Việc nhà trường ép buộc phụ huynh tự nguyện ký đơn xin cho con em học thêm, hiện tượng ấy nên gọi là gì? Việc một vài giáo viên yêu cầu học sinh học thêm tại nhà, em nào không học đều bị trù dập quanh năm, hiện tượng ấy nên gọi là gì? Báo Tuổi Trẻ ngày 29.10.2004, trang 10 ghi lại lời một em nhỏ dặn mẹ : “Mẹ nhớ không được nói với ai rằng con đi học thêm, vì nếu người ta biết thì trường con bị xóa sổ, cô bảo tụi con như thế”. Lời trẻ thơ ấy nói lên điều gì? Việc một trường nọ, đầu năm học bắt phụ huynh đóng 700.000 đồng tiền phụ đạo hai tháng rưỡi, rồi một trường kia bắt học sinh đóng 300.000 đồng để mua hai bộ đồng phục và một bộ quần áo thể dục. Cứ thử làm một phép tính nhanh, nhân tiền học phí một tháng với 50 học sinh/lớp, trừ số tiền thù lao phải trả cho giáo viên, chúng ta sẽ thấy việc kinh doanh chữ nghĩa mang lại một nguồn lợi khổng lồ; lại còn mặt hàng khác: sách giáo khoa, số lợi hàng năm là bao nhiêu? Kiến thức ngày xưa được trân trọng gọi là chữ thánh hiền, ngày nay trở thành mặt hàng giữa chợ. Những hiện tượng ấy nên gọi là gì? Tôi luôn lên án hành vi trò đánh thầy, nhưng trong một môi trường giáo dục mang không khí chợ búa, hành vi phi đạo đức ấy có thể hiểu cách nào nữa không?

Viết tới đây tôi rất lo, chỉ sợ xúc phạm những nhà giáo chân chính. Tôi có anh bạn dạy lớp 12, rất băn khoăn, ray rứt khi cầm số tiền 50.000, thù lao cho một tiết truy bài vào buổi chiều, việc làm mà anh cho là phi lý. Nhưng đó là cơ chế, biết sao hơn!

Một điều nữa khiến tôi luôn bận tâm: đem giáo dục giới tính vào trong nhà trường. Rất tốt và rất cần, nhất là trong thời kỳ bùng nổ nhiều vấn đề xã hội nóng bỏng. Nhưng điều đáng nói là người ta đã dạy các em những gì? Dưới bảng hiệu Giáo dục giới tính, xem ra người lớn có vẻ hoàn toàn đặt nặng vấn đề an toàn tình dục, mục đích: tránh lây nhiễm HIV/AIDS và ngừa thai, một gánh nặng của người lớn, của xã hội. Tôi nhớ một chuyên viên tư vấn có thế giá đã khuyên các em nên hoãn cái… sự ấy lại, một khi chưa tìm được bao cao su. An toàn trước đã! Đúng và khôn đấy các em, nhưng tôi lại buồn vì ở nhà trường, Giáo dục giới tính, trong chừng mực nào đó bị đơn giản hóa vào giáo dục sinh lý, tính dục và tôi có cảm tưởng rằng học sinh được nhìn, xin lỗi các em, như những động vật đến thời kỳ giao phối. Giáo dục giới tính phải được hiểu theo hai chiều kích: tâm lý và sinh lý. Ở tuổi các em, lời mời của giới tính, nếu có, trước hết là lời mời của tình yêu, là khát vọng chia sẻ giữa cơn khủng hoảng của tuổi mới lớn, là niềm đam mê, là ánh mắt, là nụ cười, có thể là nước mắt, là những dấu hỏi bất ngờ làm gợn sóng một thời bình yên. Tình yêu, ở tuổi mới lớn là thứ ước mơ rất đẹp, trước sau không ai tránh khỏi và cũng không ai muốn tránh, nó là bước khởi đầu của vòng truyền sinh. Giáo dục giới tính trên một bình diện nào đó, phải được hiểu là giáo dục một quan niệm đứng đắn về tình yêu, về hôn nhân, phù hợp với tinh thần văn hóa Á đông. Chúng ta vẫn hô hào phát huy văn hóa dân tộc, mà văn hóa dân tộc, dân tộc Việt Nam, không đơn giản lồng vấn đề giới tính, vấn đề tình yêu vào trong chiếc bao cao su. Các em nên nhớ rằng, tình yêu chân chính bao hàm sự tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng trước hết là không chỉ biết đòi hỏi những thỏa mãn cho riêng mình. Như thế, tình yêu đích thực, trong chừng mực nào đó hoàn toàn xa lạ với những đòi hỏi tiền hôn nhân, nó không hối thúc người trong cuộc đi kiếm bao cao su. Đó là chút vẻ đẹp rất đáng trân trọng còn sót lại của nền luân lý Á đông, thứ văn hóa thường được rất mực đề cao trong những… khẩu hiệu. Giữa một thế giới băng hoại, ai dám bảo công, dung, ngôn, hạnh là những chuẩn mực phong kiến, lỗi thời, cho dù ngày nay chúng ta không thể hiểu một cách cứng ngắc như các cụ thời xưa. Giáo dục tình yêu phức tạp vì không vạch sẵn cho các em một lối mòn để đi, nó không đơn giản như việc chỉ cho các em con đường đến nhà thuốc tây, đến bệnh viện phụ sản, mà nó mở ra nhiều chiều hướng có khả năng đạt đến khát vọng: hạnh phúc trong cuộc đời. Đơn giản giáo dục giới tính vào những biện pháp an toàn tình dục, người lớn đã lánh nặng, tìm nhẹ, tránh khó, tìm dễ. Quan trọng hơn, chúng ta đang đối diện với một vấn đề thuộc bản chất con người.

Lại đến Ngày nhà giáo rồi, ngày 20.11, ngày thiêng liêng. Ông thầy giàu tâm huyết không đợi ngày này để tiệc tùng và nhận những món quà. Ông coi ngày này như một dịp để tự vấn: ông đã làm được gì và còn phải làm gì? Trong một môi trường giáo dục chắp vá và không an toàn, các em chính là những nạn nhân. Rất tiếc, tôi hoàn toàn không đủ tư cách đại diện các đồng nghiệp để nói lời xin lỗi các em. Tôi chỉ là một cá nhân đơn lẻ và tệ hơn, chỉ là một giáo già hưu non.
17.11.2004

TÂM TÌNH CỦA MỘT GIÁO GIÀ HƯU NON (BÀI 2)


Vũ Lưu Xuân

Cũng ngày này năm trước, tôi đã có dịp tâm tình với các em học sinh, bằng tư cách của một giáo già hưu non. Năm nay giáo già hưu non xin thưa chuyện với qúy vị hiện còn may mắn phục vụ trong ngành giáo dục, một ngành mà những ai quan tâm tới tương lai đất nước đều mong muốn tham gia, hoặc ít nhất có cơ hội trao đổi và được lắng nghe.

Xin gọi một cách thân mật, và cũng hơi mạo muội, đội ngũ phục vụ trong ngành giáo dục là những đồng nghiệp của tôi, dù trẻ hay già. Từ nghìn xưa chúng ta thường được tôn xưng bằng nhiều mỹ từ, nhưng với tôi, đẹp nhất vẫn là bốn chữ lương sư hưng quốc, bốn chữ gắn vai trò ông thầy với một trọng trách, một sứ mạng , từ đó nghề giáo được coi như thiên chức. Hoàn thành thiên chức chúng ta có quyền tự hào đã góp phần, dù rất nhỏ, làm nên lịch sử, ngược lại, chúng ta sẽ là tội nhân của muôn đời. Đồng thời, vì nghề giáo là một thiên chức, nên trước hết, chúng ta không có quyền tự biến mình thành một lái buôn, bán chữ, hoặc một cai đầu dài. Ranh giới giữa công và tội, khởi đầu từ một chọn lựa, chọn lựa đối tượngthái độ phục vụ. Thế cho nên người làm giáo dục không thể thiếu một tấm lòng.

Viết tới đây, tôi chợt nghĩ tới “ham muốn tột bậc” của Bác, đó là : “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc” là điều kiện sống còn trước mắt, và “Ai cũng được học hành” là điều kiện tối quan trọng để xây dựng đất nước trong tương lai. Chỉ một vế này thôi, đủ đặt ra cho chúng ta biết bao vấn đề, biết bao trách nhiệm. Và, Các đồng nghiệp của tôi, chúng ta đã làm được gì ?Và đang làm gì ? Là những câu hỏi cần được trả lời sòng phẳng và trung thực.

Sinh ra, con người buộc phải chấp nhận xuất phát từ một khởi điểm tuyệt đối không đồng đều. Tới đây giáo dục bắt đầu thể hiện khả năng và vai trò của nó, giúp tạo ra cơ hội đồng đều cho mọi thành viên, từ đó rút ngắn những khoảng cách hầu như phi lý, hầu như bất công, và cũng từ đó cuộc sống của mọi người đều có cơ may thăng hoa, dẫn theo sự phát triển chung của xã hội, của đất nước.

Ai cũng được học hành”, đây là đối tượng phục vụ, Bác đã vạch ra cho chúng ta, những người hoạt động trong ngành giáo dục. Giáo dục, kể cả giáo dục chất lượng cao không thể là đặc quyền của một lớp người vốn đã được ưu đãi. Muốn thế, điều kiện tiên quyết, giáo dục phải nằm trong tầm với của mọi thành viên xã hội, cụ thể những chi phí, đóng góp để thủ đắc giáo dục phải ngang tầm với mặt bằng thu nhập quốc dân, để nó không trở thành một gánh quá nặng đối với đại đa số, quanh năm lấm lưng tối mặt, mà chính họ lại là thành phần cần đến giáo dục như một phương tiện hữu hiệu, nhằm cải thiện điều kiện sống, cả vật chất lẫn tinh thần, vốn đã rất đắng cay. Về phương diện này, các đồng nghiệp của tôi, các bạn đã làm được gì ? Tôi đi tìm câu trả lời và chỉ bắt gặp những tiếng than: của một phụ huynh :“Đời chúng tôi nghèo, nay cố gắng giúp cho con ăn học để thoát cảnh nghèo như cha mẹ nó, nhưng thất vọng rồi !...” (Trần Hoàng Nhiên - Cà Mau – Tuổi trẻ, 31.10.2005). Và từ phía người đi học: “Em mong được tiếp tục học, mong bộ GD-ĐT giúp đỡ cho những người như em thoát khỏi kiếp nghèo, thoát khỏi mù chữ” (sinh viên cao đẳng Phan Văn Nghĩa – Tuổi Trẻ, 3.11.2005). Hai tiếng than hàm chứa một thực tế bi đát, khiến tất cả chúng ta, những người làm giáo dục, nếu không vô cảm, tất phải giật mình, tự hỏi. Trước mắt con em muốn tiến thân bằng con đường học vấn có muôn vàn rào cản không đáng có, sao vậy ? Câu trả lời trở thành một vấn nạn thuộc lương tâm. Tiếc rằng, trong giáo dục, biết bao điều tác tệ khiến cho tiếng than ngút trời ấy mỗi lúc một dài thêm và đau thêm.

Rào cản đó là gì? Lớn nhất là Học phí.Tất nhiên, không một nhà nước nào có thể bao cấp trọn gói cho giáo dục, và phụ huynh có bổn phận phải tiếp tay, nhưng:

- Với sinh viên, học phí (dự tính 900.000/tháng), kể thêm cơm ăn , áo mặc, chỗ ở, để có thể cố sống mà học hành, lớn gần gấp đôi lương tháng của một công nhân viên chức, là phụ huynh, để khi ra trường, nếu không tìm được chỗ ngon ăn, sinh viên tốt nghiệp lại lĩnh đồng lương bằng phân nửa số học phí đã chi ra, chuyện chi mà lạ vậy?

- Với học sinh trung học, kế hoạch “tính đúng , tính đủ”, “Giáo dục chất lượng cao”, theo quan điểm:“dịch vụ chất lượng cao thì phải đóng tiền” (vấn đề này còn rất nhiều điều phải bàn về khía cạnh xã hội, đạo đức, và nguyên tắc sư phạm). Rồi đây số con em phải bỏ học sẽ là bao nhiêu ? Rồi làm sao xóa mù ? Rồi làm sao phổ cập trung học ? Rồi làm sao báo cáo? Rồi làm sao giữ ghế? Có lẽ tấm gương Cà Mau không học, không thi vẫn có bằng, sẽ là điển hình đáng để âm thầm nhân rộng trên cả nước.

Lý do phải tăng học phí (có trường hợp cao gấp 5 lần) ? : Lãnh đạo ngành thường than : thiếu tiền. Thật vậy không khi mà năm nay nhà nước đã dành 18% ngân sách cho giáo dục (trên 45000 tỉ) và năm sau là 19% (55000 tỷ), thêm nữa nhân dân những năm qua đã đóng góp 50% kinh phí, trong đó có mồ hôi, nước mắt, có chạy vạy tất tả ngược xuôi của các bậc phụ huynh không muốn con em lầm than vì dốt. Số tiền chi cho giáo dục trên dưới 100.000 tỷ, con số nhiều nước trên thế giới phải ước mơ .

Kết qủa là gì ? Là một tình trạng hổ lốn, chắp vá vì lãng phíthiếu trách nhiệm – tôi muốn đề cập tới thái độ phục vụ. Xin chứng minh :

Ai cũng phải sợ khi nghe GS Dương Thiệu Tống, GS Nguyễn Xuân Hãn, GS Hoàng Tụy, Đại biểu Nguyễn Đức Dũng ...góp ý về sự lãng phí tiền vay nợ nước ngoài (tất nhiên con em sau này phải trả), đại loại : một phần ba số nhân sự trong ngành không đứng lớp, trong lúc tỉnh nào cũng than tình trạnh thiếu giáo viên trầm trọng ; nghiên cứu một đề án chương trình tiểu học cần tới gần 2000 người tham quan, khảo sát nước ngoài, xin nhớ người tham quan khảo sát phải có trình độ chuyên viên, liệu nước ta có nhiều chuyên viên bậc tiểu học đến thế hay không ; có năm trung bình 3 ngày một cuộc họp ở tầm quốc gia ; rồi vấn đề đổi mới sách giáo khoa, mỗi năm ngốn mất 1000 tỷ đồng.

Lãng phíthiếu trách nhiệm ở đâu ? Xin chứng minh : gần 2000 người tham quan, khảo sát nước ngoài, cuối cùng đẻ ra cái chương trình tiểu học lạ đời, áp dụng chưa được nửa năm, cả nước đều than, trò không học nổi, thầy không dạy được. Lại xin chứng minh : chúng ta chi 1000 tỷ mỗi năm cho sách giáo khoa, trong khi theo nhiều nhà khoa học chỉ cần 100 tỉ đồng đủ để cải cách sách giáo khoa từ lớp 1 tới lớp 12. Cũng xin lưu ý điểm này, trên thế giới sách giáo khoa các nước từ 5 tới 10 năm mới thay đổi một lần, để duy trì liên tục tính, ổn định tính, đồng thời vẫn không bị lạc hậu trước đà tiến vũ bão của tri thức. Chỉ cần 5 năm không đổi sách giáo khoa, và chi đúng (tức 100 tỷ), chúng ta đã bớt lãng phí được 4900 tỷ, đồng thời các gia đình nghèo tránh khỏi cảnh : em không học được sách của anh, lại phải móc hầu bao mua sách mới. Chi số tiền khổng lồ, mà sách giáo khoa, tức pháp lệnh, năm nào cũng sai, đó mới là chuyện lạ. Nguyên nhân vì đâu ? Trước hết và dễ thấy nhất là dùng người không đúng khả năng. Nhưng phía sau đó, còn những lý do nào khác ? Còn những uẩn khúc gì?. Các đồng nghiệp của tôi, số tiền Nhà nước và nhân dân đóng góp cho giáo dục, không thể coi như mâm xôi thịt giữa chốn đình trung dành cho các bậc chiếu trên.

Đồng nghiệp của tôi, các bạn nghĩ sao, khi theo ông Nguyễn Đức Dũng, nếu bộ GD-ĐT không lãng phí, “chúng ta hoàn toàn không phải tăng học phí, thậm chí có thể giảm học phí.” Vậy thì, những việc chúng ta đang làm đây, là công? Là tội? Tội với người đời nay? Hay tội với người đời sau?.
Tôi lại nghĩ tới nỗi đau của Bác, nỗi đau vì ước muốn “ai cũng được học hành”, chưa được chúng ta quyết tâm thực hiện. Tôi lại nghĩ tới nỗi đau của các bậc thầy : thầy Dương Thiệu Tống, thầy Trần Văn Tấn, thầy Hoàng Tụy, ... biết bao lời tâm huyết của các bậc thầy vị vọng chẳng khác gì gió thoảng bên tai, vậy thì, mấy lời chân thật của một giáo già hưu non, ai nghe ?
17.11.2005

Friday, November 2, 2007

HỌC PHÍ, CƠ HỘI NÀO CHO CON EM NGHÈO

Vũ Lưu Xuân

Cách đây không lâu, chương trình VTV buổi tối có nhắc lại quyết tâm của TPHCM trong việc phổ cập bậc THCS. Cạnh đấy, theo Nghị quyết TƯ 2, khóa VIII của Đảng, đến năm 2010 (tức 3 năm nữa, thời gian không còn dài), phải hoàn thành phổ cập THCS trên cả nước theo chuẩn Quốc gia. Đây là một chủ trương hoàn toàn đứng đắn và cấp thiết, vì đối với các quốc gia nghèo, đang phát triển, đặc biệt trong thời đại này, mọi cuộc cách mạng kinh tế, xã hội muốn bền vững, đều phải khởi đầu bằng cách mạng Dân trí, thông qua phát triển giáo dục. Cách mạng Dân trí là điều bậc tiền bối Phan Chu Trinh đã từng tha thiết hô hào cách nay một thế kỷ. Tuy nhiên muốn phổ cập THCS, trước hết phải vượt qua rào cản có tính quyết định: học phí. Điều nghịch lý là, thay vì miễn giảm học phí, để mọi trẻ em có thể vượt qua hàng rào nhằm đạt tới mức thấp nhất của tri thức, tức cơ sở, thì chúng ta lại có khuynh hướng nâng hàng rào đó lên cao gấp 2-3 lần.

Về học phí, xin bắt đầu bằng một mẩu tin đau lòng đăng trên Tiền Phong online ngày 04.8.2007: “Cháu Nguyễn Thị Hải và Hồ Thị Viện đều sinh năm 1992, trú tại xóm 7 xứ đạo Xuân An, xã Quỳnh Xuân. Ngày 29/7/2007, 2 cháu vui mừng khi được tin cùng đậu vào lớp 10 công lập liền rủ lên lèn đội đá kiếm tiền học phí. Khoảng hơn 8 giờ sáng, một khối đá chiều ngang 1,5m dày 3m bất ngờ đổ ụp xuống đè chết 2 cháu”. Tự thân mẩu tin có thể thay cho mọi lời bình.

Xin xếp một cách đơn giản học phí vào hai hệ thống: học phí trường nhà nước (gồm trường công lập, công lập tự chủ tài chính, và cả các trường bán công chưa chuyển sang công lập) và học phí trường tư (gồm dân lập và tư thục).

I- Học phí trường công
Đối với trường nhà nước, khoảng cuối tháng 6, tất cả các báo đồng loạt loan tin: học phí sẽ tăng gấp 2-3 lần. Riêng Đại học, học phí cao gấp 5 lần mức hiện hành (900.000/ tháng). Trước sự kiện này, dư luận quần chúng không ngớt xôn xao, xin trích ít dòng trên báo điện tử Dân Trí ngày 27.6.2007: “Anh Lê Bá Hưng, nhân viên một công ty bảo vệ ở Q.1 cho hay: Hai vợ chồng vừa nhập KT3 xong, tính cho thằng con 4 tuổi vào một trường mẫu giáo công lập nào đó, nhưng nghe học phí tăng thế này thì chịu thôi. Đành cho nó về quê ở với ông bà nội để đi học chứ biết sao giờ… niềm vui sau một ngày làm việc mệt nhọc, về nhà chơi cùng con sẽ không còn. Nhưng…Đành vậy”.

Cũng Dân Trí, ngày 29.6.2007 có đoạn: “Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân khẳng định: Chế độ học phí mới phải thực hiện được công bằng, bình đẳng về cơ hội học tập, chỉ điều chỉnh từng bước…”. Đây là ước mơ của mọi người, nhất là những người nghèo muốn đổi đời bằng con đường học vấn. Đây cũng chính là lý tưởng của CNXH. Tuy nhiên ông Nguyễn Thiện Nhân còn tiếp: "Học phí phải gắn với chất lượng giáo dục, những cơ sở giáo dục có chất lượng cao phải được phép thu học phí cao". Câu này hoàn toàn chính xác về mặt luận lý, nhưng hình như lại mâu thuẫn với lý tưởng công bằng, bình đẳng về cơ hội học tập. Sở dĩ có nghịch lý trên, vì cách hiểu hai chữ Công lập của chúng ta hoàn toàn chẳng giống ai.

Lược qua một số định nghĩa:

Tự điển Việt Nam- Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ: Trường Công: trường học do Nhà nước lập ra, dạy không ăn tiền.
Từ điển tiếng Việt- Viện ngôn ngữ học: Trường Công lập= Quốc lập: do Nhà nước lập ra và đài thọ các khoản chi phí.

Từ điển Webster’s: Từ Public school được gắn liền với hai chữ: usually free (thường thì miễn phí).

Trong khi đó, các hình thức công lập của chúng ta, từ cấp hai trở lên đều phải đóng phí, và phí cao.
Để biện minh cho chủ trương học sinh trường Công phải đóng học phí, Nhà nước đưa ra lý do: Ngoài phần hổ trợ của Nhà nước theo khả năng ngân sách, học phí cần bảo đảm trang trải chi phí cần thiết cho giảng dậy, học tập và có tích lũy để đầu tư phát triển nhà trường, đủ bù đắp chi phí thường xuyên, và vì: với mức thu hiện nay, các trường cho rằng không đủ để họ tồn tại và phát triển (người viết tự tô đậm). Mấy chữ: bảo đảm trang trải, tích luỹđủ bù đắp cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về gánh nặng đè trên vai phụ huynh và con em. Cạnh đó, không hề thấy, dù chỉ thấp thoáng, bóng dáng phần hổ trợ của Nhà nước theo khả năng ngân sách. Cần nhớ, ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục năm 2001 là 15.609 tỷ đồng và đến năm 2007 tăng lên tới hơn 66000 tỷ đồng (tăng hơn 4 lần), cộng với đóng góp tương đương của xã hội, chúng ta có một qũy giáo dục cao ngất ngường, có lẽ trên dưới 120.000 tỷ đồng, vào hàng cao nhất trong khu vực. Vậy tại sao vẫn phải tăng học phí. Câu trả lời, xin đi hỏi Gs Nguyễn Xuân Hãn, bậc thầy mà tôi không có cơ may được thụ nghiệp, nhưng vẫn luôn luôn kính trọng tâm huyết của ông. Vẫn theo thầy Hãn, với một ngân qũy như thế, ngành Giáo dục không cần tăng học phí mà vẫn đủ để tăng lương, đồng thời giảm học phí cho con em, với điều kiện là…
Nhìn các nước trên thế giới mà thèm. Xin trưng ra hai thí dụ: một đất nước XHCN, và một đất nước theo Tư bản chủ nghĩa. Ở Cuba, học sinh tất cả các cấp đều được học hành miễn phí. Có thể qúy vị sẽ phản biện rằng, Cuba là một nước ít dân (11 triệu), nên việc đài thọ chi phí giáo dục tương đối dễ. Nhưng còn Thái Lan thì sao? Dân số 65,4 triệu (thống kê 2005), vậy mà học sinh được học miễn phí trọn 12 năm, và đang tính tăng lên thành 15 năm.…
Thái Lan, Singapore, Malaysia đã trở thành những con rồng thực sự, nguyên nhân không phải nhờ những phép mầu, mà nhờ một đường lối đứng đắn, hợp lý trong việc phát triển kinh tế song hành với phát triển giáo dục. Nhà nước ở đó không hề so đo, không hề ngại tốn kém, không đòi hỏi học phí phải bảo đảm trang trải, phải đủ bù đắp… Chứng minh bằng những con số: ngân sách đầu tư cho giáo dục ở Trung quốc bình quân là 105USD/người, Thái Lan là 350USD/người, Malaysia là 720USD/người, còn chúng ta là 53USD/người. Đây là số liệu năm 2004, rất tiếc chúng tôi không có số liệu cập nhật (nguồn www.mof.gov.vn). Nếu có tầm nhìn xa, Nhà nước tuyệt đối không thể coi Giáo dục là ngành đầu tư có lợi trước mắt, và cân đong đo đếm lời lỗ được.

II- Học phí tư thục.

Có thể khẳng định học phí trường tư đang hoàn toàn được thả nổi. Tại sao? Câu trả lời có thể đến, nếu người đọc chịu khó suy nghĩ.

Toàn thành hiện có 52 trường trung học Tư thục và Dân lập. Xin đưa ra số liệu của 1/12 trường tư thuộc loại nhỏ nhất, tức chỉ có dưới 10 lớp. Trường tư có quyền tự quyết về mặt học phí. Vì nhỏ, muốn tồn tại, phải có một mức học phí thấp nhất, thấp 2-3 lần so với những trường lớn, có thương hiệu.

Học phí:
-Lớp 6, 7 400.000 đ/tháng.
-Lớp 8 450.000 đ/tháng.
-Lớp 9, 10 500.000 đ/tháng.
-Lớp 11 550.000 đ/tháng.
-Lớp 12 650.000 đ/tháng.

Cơm trưa bán trú: 220.000 đ/tháng.

Nội trú đóng thêm: 650.000 đ/tháng. (cộng chung là 870.000 đ/tháng tiền ăn ở).

Liệu rằng mức phí thấp nhất đó, phụ huynh nghèo có cáng đáng nổi không?

Lại thử tính mức lãi ròng của một trường thuộc loại nhỏ nhất, phải thuê mặt bằng, để thấy ngành kinh doanh chữ nghĩa, một khi được thả nổi, sẽ béo bở tới mức nào.
Bình quân các lớp mỗi tuần học 44 tiết, một tháng trên dưới 180 tiết.

Tiền giờ trả cho Gv:
-Lớp 6,7,8 25.000 đ/tiết.
-Lớp 9 30.000 đ/tiết.
-Lớp10 30.000-35.000 đ/tiết, tuỳ môn.
-Lớp 11 30.000-40.000 đ/tiết, tuỳ môn.
-Lớp 12 35.000-45.000 đ/tiết, tuỳ môn.
Nếu lấy tiêu chuẩn lớp 9, với 30 hs:

-Tiền thu học phí: 30x500.000 = 15.000.000 đ/tháng
-Tiền chi:
*Mặt bằng thuê: 1.000.000 đ/thg.
*Điện nước, vệ sinh, khấu hao: 500.000 đ/thg.
*Giáo viên quản nhiệm: 1.200.000 đ/thg.
*Gv đứng lớp: 30.000 đ x 180 tiết = 5.400.000 đ/thg .
-Cộng chung chi: 8.100.000 đ/tháng.
Trừ thêm chi phí linh tinh (tính cao tối đa), lãi ròng còn khoảng 5.000.000 đ/tháng.

Đối với những trường lớn khoảng 100 lớp, học phí gấp đôi, và sĩ số lên tới 4,50hs/lớp thì sao? Bởi thế người ta tính rằng, trường tư lớn lời khoảng 1 tỷ tới 1,8 tỷ/ tháng. Ai là người gánh khoản lợi nhuận này? Xin thưa, con em ta đó. Tôi thực sự nghi ngờ thiện chí của những nhà-giáo-kinh-doanh-chữ-nghĩa đối với tương lai con em, cũng là đối với tiền đồ dân tộc.

Trở lại việc phổ cập cấp THCS. Ở các nước trên thế giới, học sinh trong lứa tuổi phổ cập, nếu không đi học, cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Singapore chẳng hạn. Trẻ đang trong tuổi cưỡng bách giáo dục mà không đi học thì cha mẹ bị phạt tới 5.000 đô Sing. và có thể bị phạt tù, nhưng không quá 12 tháng. Còn chúng ta, bắt buộc phổ cập cấp hai, nhưng học phí lại trên trời, phụ huynh biết hỏi ai? Chẳng lẽ phạt các bậc cha mẹ đành để con thất học, chỉ vì không kham nổi học phí.
Xin nhớ, điều kiện tiên quyết để phổ cập phải là: phổ cập tới đâu, miễn phí tới đó.
Đứng trước nỗi bức xúc của phụ huynh đối với việc tăng học phí, đầu tháng 7, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Văn Vọng đã giải thích với báo chí rằng: "Bộ chưa trình Chính phủ đề án học phí mới, nên Bộ chưa có chủ trương chỉ đạo các tỉnh, thành điều chỉnh học phí". Thật may, nhưng thưa các bậc phụ huynh, nói chưa chỉ đạo tăng, không đồng nghĩa với không tăng. Và các bậc phụ huynh vẫn có quyền tiếp tục lo.
29.8.2007

Thursday, November 1, 2007

GIÁO DỤC VÀ THƯƠNG MẠI


Vũ Lưu Xuân

1. GIÁO DỤC VÀ THƯƠNG MẠI

Giáo dục và Thương mại là hai hoạt động độc lập, nhưng tương tác, đồng tồn tại trong mọi hình thái xã hội tiến bộ. Ở một phạm vi nào đó, Giáo dục bổ sung cho thương mại, nó nghiên cứu hệ thống quy luật chi phối thương mại, và cung cấp những thành tố chuyên sâu, giúp cho thương mại hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên giữa Giáo dục và Thương mại có những điểm khác biệt rất rõ, và hầu như bất tương dung, cụ thể là về mặt mục tiêu.

a- Giáo dục. Mục tiêu hàng đầu của Giáo dục là đào tạo. Giáo là dạy dỗ, Dục là nuôi dưỡng, nhằm đào tạo những con người toàn diện về ba mặt Trí, Đức, Thể. Đối với việc dạy dỗ, truyền thống văn hóa Dân tộc chủ trương: Tiên học Lễ, hậu học Văn, như thế Đạo đức được đặt trên Tri thức một bậc. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, mục từ Giáo dục đạo đức được định nghĩa là: “Bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục, có nhiệm vụ rèn luyện lý tưởng, ý thức, thói quen, hình thành ở học sinh các phẩm chất đạo đức...” (Tập 2, trg 120). Xin đặc biệt lưu ý cụm từ tính chất nền tảng của giáo dục.

Với phương châm “Tiến Đức, Tu Nghiệp”, hệ thống Giáo dục một thời bị đánh giá là phong kiến, lạc hậu, đã cung cấp cho chúng ta quan niệm rất rõ về mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục. Nhắc đến cách dạy học của Khổng Tử, Nhan Hồi nói: “Phu tử tuần nhiên, thiện dụ nhân: "bác ngã dĩ văn, ước ngã dĩ lễ” (Phu tử cứ tuần tự khéo dạy dỗ người: lấy văn học làm rộng kiến thức của ta, lấy lễ nghĩa mà ước thúc hành vi của ta*) Ở đây, Văn học được hiểu là Tri thức nói chung. Trong hệ thống Giáo dục này, nhiệm vụ của ông thầy được coi là Thiên chức, tức là một chức vụ thiêng liêng, cao cả do Trời trao phó, qua đó chuẩn bị cho môn sinh vào đời, bằng cách lấy hành vi của mình làm chuẩn mực và dạy dỗ môn sinh cách đối nhân xử thế, đồng thời chuyển giao Tri thức cho các thế hệ đàn em. Giáo dục luôn có tính kế thừa và nâng cao. Chính vì ý thức vai trò cao cả của Giáo dục, nên đối với ba ngàn tử đệ, Khổng Tử tuyệt đối không đặt vấn đề lợi nhuận trong việc thu nhận môn sinh. Ngài từng nói với học trò: “Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên” (Từ người đem lễ bó nem trở lên, ta chưa từng không dạy ai vậy), hành vi đó hàm ý không thể coi Giáo dục như món hàng để bán. Qua phần trên, xin nhấn mạnh nguyên tắc: Giáo dục nhằm mục tiêu đào tạo, không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nếu có lợi, chắc hẳn không phải cái lợi vật chất trước mắt đem đến cho ông thầy, mà là cái lợi lâu dài của đất nước, từ đó mới có 4 chữ Lương sư hưng quốc. Chính vì thế, vị trí của ông thầy trong Tam cương còn cao hơn cha mẹ, người đã cho con hình hài. Dấn thân vào sự nghiệp Giáo dục, trước hết ông thầy phải quyết tâm thực hiện mục tiêu cao cả: trồng người. Đọc tới đây, chắc hẳn có bạn cho rằng tôi đòi hỏi quá đáng giữa thời buổi cơm áo, gạo tiền. Tuy nhiên, nếu chúng ta không thể là thánh nhân, thì ít nhất, chúng ta cũng không cam tâm biến mình thành tội nhân, tức lấy lợi nhuận qua việc bóc lột học sinh làm mục đích sống còn của cuộc đời.

b. Thương mại. Mục tiêu hàng đầu của Thương mại là lợi nhuận. Thương mại hiểu nôm na là hoạt động lưu thông hàng hoá, nhằm tạo ra lợi nhuận cho nhà buôn, từ chênh lệch giá thu của khách hàng. Hoạt động thương mại không ngoài mục đích làm giàu cho bản thân, bởi vậy người ta thường nói: Phi thương bất phú. Đào Duy Anh định nghĩa: bán hàng gọi là thương, mua hàng gọi là mãi (Hán Việt tự điển). Trong hoạt động Thương mại, vấn đề Đạo đức không được đặt ra. Khái niệm Thương trường như chiến trường nói lên tính chất phi đạo đức của hoạt động này. Do đó, người ta chỉ quan tâm tới Đạo đức học đường, mà không đề cập tới Đạo đức thương mại. Nếu tình trạng buôn gian bán lận bị lên án, thì sự vi phạm cùng lắm cũng chỉ thuộc phạm trù đạo đức xã hội, tức là những nguyên tắc cần để bảo đảm tính ổn định của đời sống cộng đồng.

2. THƯƠNG MẠI HOÁ GIÁO DỤC

Mấy năm gần đây, báo chí thường phản ánh bộ mặt phần nào lem luốc của ngành Giáo dục, phải kể tới những tệ nạn đến từ các cơ quan chức năng, từ giới lãnh đạo, nhưng chua xót hơn cả là những tệ nạn đến từ phía các ông thầy, bậc mô phạm, trực tiếp gánh trách nhiệm đào tạo thế hệ tương lai. Tuy nhiên, những hành vi phản đạo đức, và đáng lên án đó, chẳng qua chỉ là những hiện tượng riêng lẻ, nhất thời. Trước sau, tôi vẫn tin tưởng ở cái tâm trong sáng của tuyệt đại đa số các ông thầy, họ là những con người thầm lặng, và không cam tâm dùng thủ đoạn để hưởng lợi, hưởng đặc ân trong các cuộc bon chen. Hơn nữa, những tệ nạn này có thể cải thiện, một khi quyết tâm đưa ra biện pháp thanh lọc triệt để môi trường giáo dục, không đặc cách, không thiên vị, không có luật trừ, và cố gắng đào tạo một đội ngũ kế thừa đầy đủ phẩm chất. Theo tôi, điều thực sự đáng lo ngại chính là Thương mại hóa Giáo dục. Đây là một vấn đề gây tranh cãi nhưng có nguy cơ trở thành chủ trương của ngành giáo dục, vì nó đem lại cái lợi trước mắt: giảm được gánh nặng chi phí cho nhà nước, nhưng nó sẽ để lại hậu quả lâu dài.

Khái niệm Thương mại hóa Giáo dục nhất thiết phải được hiểu là: Biến Giáo dục thành một bộ phận của hoạt động Thương mại, bằng cách coi tri thức như một món hàng, nhằm mục đích kiếm lợi nhuận trên đầu đối tượng là học sinh. Trường học sẽ biến thành những công ty cổ phần, và chủ tịch Hội đồng quản trị sẽ là những doanh nhân thuần túy. Ai dám bảo đảm các doanh nhân ấy thật lòng vì giáo dục, thật lòng vì mục đích đào tạo các thế hệ tương lai? Ai dám bảo đảm trong đám doanh nhân ấy không len lỏi vào những chủ trường cá mập, những cai đầu dài. Tất nhiên nếu Giáo dục có biến thành một hoạt động thương mại, thì cũng là một hình thái thương mại đặc thù, với những ước thúc đặc thù, nhưng với một hệ thống pháp luật còn nhiều kẽ hở, ai dám bảo đảm học sinh không biến thành nạn nhân của bọn lừa đảo và trục lợi bất chính. Quan trọng hơn, đường lối này vô hình trung đã làm thay đổi toàn diện quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ, giá trị của giáo dục vai trò của ông thầy. Một mặt, nó hạ thấp giá trị của Giáo dục, biến Giáo dục thành hoạt động buôn bán, một thị trường, trong đó có những cạnh tranh chân chính và chắc chắn không tránh khỏi những cạnh tranh bất chính, tất cả đều nhằm mục tiêu tạo ra lợi nhuận. Mặt khác, trong môi trường này, ông thầy mặc nhiên trở thành một cán bộ thương nghiệp, tức người bán chữ và học sinh trở thành khách hàng, người mua chữ. Gạch nối giữa thầy trò là tương quan kẻ bán, người mua, từ đó vấn đề tình nghĩa thầy trò không thể đặt ra, vì vô nghĩa, vấn đề tôn sư, trọng đạo trở thành một khái niệm lạc hậu, vì không ai đòi hỏi người mua phải yêu kính kẻ bán bao giờ. Thay đổi quan niệm về giá trị, tất yếu sẽ từ từ dẫn đến thay đổi tâm lý, thái độ phục vụ của những người trực tiếp tham gia hoạt động giáo dục. Xung đột giữa thầy và trò nếu có, phải được hiểu là xung đột quyền lợi giữa kẻ bán, người mua, và nếu khách hàng đánh con buôn vì bị ép mua hàng dổm, giá cao thì cũng là chuyện thường tình, không thể lên án nhân danh Đạo đức, mà chỉ có thể kết tội phá rối trật tự công cộng. Viết đoạn này tôi rất sợ bị hiểu lầm, vì tôi tuyệt đối không chấp nhận, lại càng không khuyến khích việc học sinh hành hung, vô lễ với thầy cô giáo. Nhưng nguy cơ tệ trạng trên xảy ra là có thật. Xin nói gọn lại cho rõ: Nếu ông thầy tự coi mình là cán bộ thương nghiệp (lưu ý mệnh đề phụ chỉ điều kiện), thì trò đánh thầy chỉ đơn thuần là xung đột giữa kẻ bán, người mua.

Tiếp đó cũng phải kể tới một hệ lụy khác: chất lượng của hàng hóa, tức tri thức và khả năng mua của các thành phần khách hàng khác nhau.

Đã có khái niệm Giáo dục chất lượng cao, thì tất yếu phải có Giáo dục chất lượng vừaGiáo dục chất lượng kém, và cũng tất yếu phải có những mức Giá cả tương xứng với chất lượng món hàng. Giáo dục chất lượng cao đương nhiên trở thành món hàng độc quyền của một thiểu số con ông, cháu cha, giàu nhưng chưa chắc giỏi và chưa chắc có đạo đức. Còn con em nhà nghèo, dù giỏi và ngoan, cũng không thể nào với tới món hàng giáo dục chất lượng đáng giá 2,3 triệu đồng/ tháng. Thế nhưng, trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta, những người làm Giáo dục, tuyệt đối không có quyền trao cho con em mặt hàng tri thức chất lượng kém, chỉ vì các em nghèo, không đủ tiền mua mặt hàng tốt hơn. Và các ông thầy được tuyển dụng vào các ngôi trường Giáo dục chất lượng cao chưa chắc đã hoàn toàn là những ông thầy thực sự giỏi, mà lẫn lộn vào đó sẽ có nhưng thành phần bon chen, được chọn lựa vì khéo bảo vệ sinh mệnh chính trị, nói trắng ra là khéo lấy lòng cấp trên. Từ đó gây ra tình trạng phân hóa giữa học sinh, mà lương tâm lẽ ra phải trong sáng, hồn nhiên, không mặc cảm cả tự tôn (nhà giàu) lẫn tự ty (nhà nghèo), và phân hóa giữa đội ngũ các ông thầy, mà lẽ ra phải lấy việc bon chen, kèn cựa, không thực hiện đầy đủ chức năng của ông thầy làm một điều đáng xấu hổ. Đây chính là vết nhơ đối với danh dự và nhân cách của ông thầy, một khi Giáo dục được phân cấp theo tiêu chuẩn đồng tiền.
Ở thế hệ chúng tôi, và cả các thế hệ đàn em, tình nghĩa thầy trò, dù bao nhiêu năm xa cách, vẫn không hề giảm sút. Vậy mà những năm gần đây, thứ tình cảm thiêng liêng ấy hầu như mỗi ngày một phai lạt. Nguyên nhân có lẽ phát xuất từ cảm giác học sinh đã bị một bộ phận nào đó trong ngành giáo dục lợi dụng để làm giàu. Cùng với đà phát triển theo chiều hướng thương mại hóa, theo tôi, nếu đạo đức học đường không sa sút mới là chuyện lạ, và tệ nạn trong giới trẻ, nếu không mỗi lúc một tràn lan, thì lại càng là điều đáng lạ hơn.
* Phần dịch nghĩa lấy của Trần Trọng Kim trong Nho giáo, quyển Thượng

6.6.2007

Thơ Đình Bảng, cảm nhận của một người bạn



Vũ Lưu Xuân


Tôi quen Đình Bảng hơn bốn mươi năm về trước, thời sinh viên, lứa tuổi còn trọn vẹn hồn nhiên và thường ngây thơ coi trời bằng vung. Rồi từng đứa đều lãnh nhận đôi ba bài học của đời, của người, và ra đi, tản mác, đối mặt với những định mệnh chẳng ai giống ai, riêng phần cay đắng thì có lẽ tất cả đều có dịp trải nghiệm, trải nghiệm để già đi và chín hơn. Ngày ấy Đình Bảng thế nào nhỉ? Sôi nổi, cái hào khí tuổi sinh viên, khi biểu lộ thái độ của mình trước các vấn đề chính trị, giáo dục, và cũng mơ mộng để… làm thơ. 1967, anh tặng tôi đứa con đầu lòng: “Bước chân người Giao Chỉ”. Hơn ba mươi năm sau gặp lại, cả hai mái đầu đều đã phơ phất bạc, ngồi bên quán cóc vỉa hè, nhìn người, nhìn mình, nhìn lại những kỷ niệm, nhìn lại những khúc quanh đã làm cho cuộc đời thêm phức tạp và bớt đơn điệu. Riêng Đình Bảng, lúc này anh thế nào nhỉ? Trầm hơn, nhưng vẫn tiếp tục cuộc hành trình hầu như không có điểm dừng: làm thơ. Và mới đây, anh tặng tôi đứa con tinh thần khác, “Hành Hương”, kèm với lời dặn: “Đọc đi rồi viết vài dòng suy nghĩ về tập thơ của mình”. Thật khó cho tôi, thú thực, tôi là tay viết không chuyên, thích thơ mà không biết làm, đúng ra cả đời cũng làm được ba bốn bài, làm rồi lẳng lặng cất đi, gặp lúc chếnh choáng, lấy ra đọc cho ông bạn hiểu nhau mà ít gặp, hai đứa cúi đầu, nhăn mặt, rồi ngông nghênh cười. Như vậy, phân tích thơ Đình Bảng dưới góc nhìn của nhà phê bình, tôi tuyệt nhiên không đủ khả năng, chỉ xin cố gắng ghi lại cảm nhận của một người bạn. Cảm nhận đã hàm nghĩa chủ quan. Cảm nhận của một người bạn lại càng chủ quan hơn. Chủ quan và chủ quan, e rằng rất khó được chia sẻ, xin đành. Nhưng mỗi ý kiến gửi đi có thể là một phát hiện, một sự làm giàu, chỉ mong vậy. Cần thêm, vì là cảm nhận, nên đoạn ngắn này hạn chế việc trích dẫn, cũng không chú tâm phân tích từng câu, từng bài.


Và xin đi gặp Đình Bảng. Ở anh, có một điều khiến tôi chú ý: từ khởi điểm đời thơ, Bước chân vốn dĩ đã là một chuyển động liên tục trên đường, thường để hướng tới cái đích nào đó. Bốn mươi năm sau, tiếp Bước chân là cuộc Hành hương. BướcHành, phải chăng có thể nói đời và thơ Đình Bảng hầu như đã mắc vào cái nghiệp, nghiệp lang thang đi tìm. Anh tìm gì và tìm được gì? Câu trả lời, xin góp một phần nhỏ, một cảm nhận, vì chẳng ai thực sự thấu hiểu trọn vẹn mọi chiều kích của tha nhân.


Bước chân người Giao Chỉ” bốn mươi năm trước, tôi đã đọc và tôi đã quên, không thể nhớ nổi một câu, một cái tựa bài, tệ thật. Nhưng từ đâu đó, tôi vẫn giữ mãi một ấn tượng về nguồn thơ, về chất thơ. Về nguồn thơ, cảm hứng trong “Bước chân người Giao Chỉ”, Đình Bảng tìm được ở cội nguồn dân tộc, từ thời kỳ lập quốc hồng hoang, rồi nhọc nhằn dựng nước, giữ nước. Cảm nhận đầu tiên của tôi là ngay từ ngày ấy, còn trẻ, Đình Bảng đã tìm được một lối đi riêng. Giữa lúc đa phần sinh viên, đặc biệt là giới sinh viên, thích khoác cho mình chiếc áo Hiện sinh, đôi khi quá khổ, để ngông nghênh, làm dáng trí thức với đời, riêng anh không chú ý tới việc đua đòi, phù phiếm, mà đắm mình trong cội nguồn dân tộc, thứ thực tại mênh mông và sâu thẳm, rất gần mà lại rất xa, gần về máu thịt, mà xa về khoảng cách thời gian. Với tôi, đó là điều lạ thứ nhất. Điều lạ thứ hai: chất thơ. Cho dù vẫn có những thi ảnh lạ, những ngôn từ mới, nhưng Đình Bảng hầu như không gắng gượng trong phá cách về mặt ngôn ngữ, nhịp điệu, như chúng ta thường thấy trong khuôn khổ thơ tự do, thơ xuôi thời thượng, khởi sự từ thập niên 60, thế kỷ XX. Anh hài lòng với thể loại thuần tuý Việt Nam: lục bát. Thể thơ dễ làm nhưng khó hay, khó hay vì nhịp điệu tương đối đều đều, chầm chậm. Nắm được cái hồn lục bát qủa không chút dễ dàng. Vậy mà, theo bạn bè, lục bát chính là những vần thơ đạt nhất của anh, nó chiếm phần áp đảo so với thể loại 5 chữ, 7 chữ và 8 chữ. Dòng lục bát vốn dĩ thật mềm và thật hiền, nên thơ Đình Bảng, ngay từ hồi rất trẻ, chẳng bao giờ dữ dội, phá phách. Trong thơ anh, tôi không tìm thấy những dằn vặt nghiệt ngã của đời. Và từ đó, tôi đã chớm cảm nhận ở anh một phong cách Đình Bảng, không thể lẫn lộn với ai. Bạn thích thơ Đình Bảng hay không, tuỳ ý, nhưng tạo được phong cách riêng đã là thành tựu.


"Hành Hương" là tập thơ tôi đang có trong tay, trang nhã, với 57 bài, một số đã phổ nhạc. Vẫn là cuộc viễn du, tuy nhiên lần này, ở một khúc quanh khác, anh tìm tới vùng trời huyền nhiệm của Tôn giáo, Tôn giáo của anh, Công giáo, nhưng là thứ Công giáo pha lẫn mùi Thiền, một hình thái hội nhập tâm linh, để chất Tây phương thiên về cơ cấu, có thể hoà quyện với hương vị Đông pương mê hoặc. Từ cội nguồn dân tộc trong Bước chân người Giao Chỉ, tới nguồng mạch Tôn giáo trong "Hành Hương", tôi cảm nhận, rõ ràng Đình Bảng không hài lòng với những gì hời hợt, những tình tự phù phiếm, nhất thời, mà nỗ lực tìm cho thơ một chiều sâu, dù rằng nhọc nhằn. Ở chiều sâu luôn có khoảng tối, tĩnh lặng, lạc lõng, cô đơn, nhưng chính vì thế chúng ta có đủ điều kiện để thấy rõ hơn chính mình, giữa người và giữa trời. Phải chăng, trước sau, Đình Bảng vẫn là một kẻ cô đơn trên chặng đường dài. Này Đình Bảng, vậy anh là người tỉnh trong cõi điên, hay người điên trong cõi tỉnh, tôi không biết và có lẽ anh cũng không biết, cần gì. Lại nghĩ: Nếu "Bước chân người Giao Chỉ" là sử thi, thì "Hành Hương" là đạo ca. Như vậy với tuổi đời, với mái tóc điểm bạc, với cõi lòng đã già hơn và tĩnh hơn, đã xa hơn với đất, đã gần hơn với trời, cùng đích của truy tìm, hình như đã được nâng cao thêm một cung bậc, có thể nói thế được không?


Lại nói về "Hành Hương". Tôi thực sự kinh ngạc trước những cảm xúc Tôn giáo ngây ngất, dạt dào chảy, mà tôi thấy không hề giả dối, màu mè. Tôi vốn lười đọc, nên mới gặp những rung động tới tận chiều kích tâm linh như thế ở ba người: Nữ Thánh Têrêxa, Hàn Mặc Tử và Đình Bảng. Cảm xúc không tồn tại trong những khối óc ưa toan tính, mà xuất phát tự đáy sâu tâm hồn càng lúc càng mềm ra, mềm ra vì nhận biết mình nhỏ nhoi, hèn mọn trước cõi vô cùng, trước tình yêu vô cùng của Đấng Tạo dựng, với anh là Thiên Chúa. Bên cạnh tuyệt đối thể, Đình Bảng như đang muốn được tan chảy, tan chảy để hoà chung thành một dòng. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi, ngay lúc mới bước chân vào thế giới "Hành Hương". Đối với những người lòng khô, dạ cứng, xa lạ với cảm xúc Tôn giáo như tôi, cảm nhận tiếp theo: "Hành Hương" qủa là một chùm thơ khó đọc, khó chia sẻ về mặt tâm tình. Cái tôi tìm được ở "Hành Hương" là giá trị thẩm mỹ, là vẻ đẹp của lời thơ, ý thơ, của dòng lục bát vẫn là chủ đạo.


Có người bảo thơ Đình Bảng tối, như một kiểu ẩn dụ cố tình. Đồng ý thơ Đình Bảng đôi chỗ khó hiểu, nhưng theo tôi, lý do là, cho dù Đình Bảng có một vốn từ đẹp và giàu, nhưng ngôn ngữ, phương tiện chuyển tải hữu hạn, làm sao bắt kịp nhịp cảm xúc hầu như vô hạn, dồn dập, không lớp lang, vì thế, thơ Đình Bảng tối vì quá cô đọng. Anh giống như đang hấp tấp đuổi theo tình mà sót lời, đúng hơn là vượt qua lời, cái khung cần thiết của tư duy, nhưng không đủ cho thi ca, với thi ca, chung cuộc vẫn là ý ở ngoài lời. Đó cũng là một yếu tố khiến phong cách Đình Bảng hiện ra rõ hơn trong chặng đường thứ hai. Cạnh đó, nếu chỉ loay hoay về mặt ngữ nghĩa, tức cố tình chẻ sợi tóc làm tư, thì không những Đình Bảng, mà còn nhiều nhà thơ khác, Hàn Mặc Tử chẳng hạn, sẽ chết tươi dưới lưỡi dao đồ tể thô bạo. Đố ai hiểu được hai câu thơ của Hàn Mặt Tử:


Và ai gánh máu đi trên tuyết
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang
.


Cũng đố ai hiểu được câu thơ Đình Bảng theo kiểu luận lý hình thức:


Ai đang đến, vội vàng chi, thảng thốt
Chờ đêm thiêng, ẩn dưới bóng tình quân.


Ở anh, cái chúng ta cảm nhận được chính là ấn tượng (thơ Đình Bảng thiên về trường phái Ấn tượng? Tôi chưa dám võ đoán) của lời thơ, của thi ảnh, nhiều thi ảnh vụt hiện đột ngột và mới lạ, không gò bó, ràng buộc trong khuôn khổ ngữ nghĩa. Theo tôi, đó mới thực sự là ngôn ngữ thơ, thứ ngôn ngữ không bao giờ chịu trói, không trần trụi, đơn giản.
Cũng chính vì quan niệm như thế, nên bản thân tôi, vốn duy lý, chẳng dám mon men tới thế giới lung linh, phiêu bồng của thơ. Với thơ, trước sau tôi vẫn là kẻ ngoại đạo. Vậy mà, hôm nay kẻ ngoại đạo đã liều góp với anh vài lời, xin thứ lỗi cho.


Monday, October 29, 2007

Bao cấp tư tưởng trong giảng dạy văn học


Vũ Lưu Xuân

Tôi chính thức nghỉ dạy văn từ năm 1981. Bỏ nghề mà vẫn nhớ. 26 năm sau, lại có cơ hội quay về môi trường cũ, lớp học, với tư cách khiêm tốn: quản nhiệm, nôm na là coi cho học sinh nội trú học
bài vào buổi tối tại một trường tư. Cơ hội này giúp tôi có dịp tận mắt chứng kiến cách học và dạy môn văn ở trường phổ thông, đặc biệt là lớp 12, cuối cấp. Từ cái nhìn sơ bộ, tôi có cảm nhận đầu
tiên (chưa thành khẳng định): cách dạy và học văn của chúng ta mỗi lúc một tồi đi. Cảm nhận có thể sai, vì tôi mới có dịp làm quen với một trường hợp duy nhất, chưa thể khái quát hoá.

Viết bài này, dù trưng dẫn một lớp học cụ thể, nhưng tôi tuyệt đối không phê phán bất cứ giáo viên nào, tôi cũng không chê trách các em học sinh. Tất cả đều là nạn nhân của một cung cách giáo dục vụ hình thức, chuộng hư danh, thành tích, mà lại bế tắc, không tìm ra biện pháp khả thi, cụ thể là giúp học sinh thi đậu, từ đó sẵn sàng hy sinh, mà không quan tâm tới cái giá phải trả. Điều đáng buồn, tất cả chúng ta, cả thầy lẫn trò, dù thật sự khổ tâm, mà vẫn phải loay hoay, vật lộn trong một tình thế chẳng đặng đừng.

1. Tư duy văn học

Từ khi tri thức của con người thêm phong phú, đa dạng và chuyên sâu, phương pháp luận đối với từng bộ môn trở nên cần thiết, nó giúp việc nghiên cứu thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn. Ở đây xin lược xét vấn đề phương pháp tư duy trong văn học và giảng dạy văn học.
Trước hết, có một ranh giới thường mập mờ và ít được quan tâm, tách bạch. Ranh giới giữa văn chương và văn học. Xin lưu ý điểm khác biệt: Văn chương là một bộ môn nghệ thuật, còn văn học là một bộ môn khoa học. Ở nhà trường, cụ thể là cấp ba, chúng ta không dạy sáng tác văn chương, mà bước đầu dạy nghiên cứu văn học.
Sáng tác văn chương là hoạt động nghệ thuật. Tác phẩm văn chương, lấy chất liệu từ thực tế cuộc sống, sử dụng tư duy hình tượng, thi ảnh, thông qua cái khung ngôn ngữ, nói chung, nhằm sáng tạo ra cái đẹp, cả về mặt hình thức nghệ thuật, lẫn nội dung tư tưởng.

Văn học lấy các tác phẩm văn chương, các tác giả, làm đối tượng nghiên cứu, hoặc đi từ tác phẩm, tác giả, rồi khái quát hóa, để phát biểu cái nhìn xuyên suốt về một khuynh hướng, một chặng đường, hoặc rộng hơn, nghiên cứu toàn bộ quá trình diễn biến của tất cả các trào lưu sáng tác, kinh qua chiều dài thời gian, chúng ta đang nói tới văn học sử.

Vì là bộ môn khoa học, tư duy văn học cho dù trừu tượng, trước hết, vẫn phải tôn trọng tính minh bạch, hợp luận lý. Tư duy đó đòi hỏi cái nhìn phân tích, để phát hiện ra tính đặc thù trong mỗi tác phẩm, mỗi tác giả. Tư duy đó đòi hỏi cái nhìn lượng giá, để tìm ra giá trị đích thực, không chịu lệ thuộc vào kiểu nhìn truyền thống, hoặc a dua theo thói thời thượng. Tư duy đó đòi hỏi cái nhìn đối chiếu, để so sánh, định vị một tác giả, tác phẩm trong một trào lưu, một khuynh hướng văn chương. Tư duy đó đòi hỏi cái nhìn tổng hợp để quán xuyến được một dòng chảy, một thời đại… Nói chung, tư duy văn học luôn dành một khoảng trống cho phát hiện, sáng tạo, cho những góc nhìn chưa được xác lập, do đó có khả năng phong phú hoá đời sống tinh thần.

2. Tư duy văn học trong trường phổ thông.

a. Tính chất và lợi ích

Nguyên tắc đầu tiên cần khẳng định: dạy văn tức là dạy cách làm người, vì:

-Trong nhà trường, một mặt, tư duy văn học làm giàu khả năng phán đoán, suy luận.

-Mặt khác, xuyên qua các tác phẩm đã được chọn lọc, tư duy văn học, nếu phát triển một cách đúng đắn, và có phương pháp, sẽ gián tiếp hình thành những giá trị nhân bản, đạo đức, đẹp và cần, thấm vào lòng học sinh. Chúng ta rất khó giảng dạy luân lý, đạo đức bằng những khẩu hiệu thường được bôi trơn, bằng những bài học nhàm chán và khô cứng, bằng những lời khuyên sáo rỗng, dựa trên những giá trị đôi khi cũng đã khô cứng, lỗi thời, đã bị ăn mòn, chỉ còn trơ lại cái vỏ bọc.

-Cạnh đó, tư duy văn học giúp học sinh tự thân phát hiện ra giá trị thẩm mỹ tiềm ẩn trong nghệ thuật, từ đó gợi hứng thú viết lách, tạo ra cái đẹp, hứng thú đi tìm những góc nhìn mới, và hứng thú tự khẳng định mình: tôi không thể, và cũng không chịu là phiên bản của bất cứ ai, cho dù đó là những thầy cô thực sự có tài.

b. Từ một trường hợp cụ thể

Trở lại lớp học cụ thể tôi đã có dịp chứng kiến. Để đối phó với kỳ thi tốt nghiệp, bên cạnh sách giáo khoa được mặc nhiên công nhận là pháp lệnh, mỗi học sinh còn có thêm một tập luận mẫu quay rônêo, do chính giáo viên soạn. Việc học văn chủ yếu gồm: học thuộc lòng các văn bản để trích dẫn, và trả lời câu hỏi, soạn trước các bài giảng, nhưng công việc quan trọng có tính quyết định thành bại trong kỳ thi môn văn: làm tự luận. Phần tự luận được thực hiện ngoài giờ chính khoá như sau: chép lại, có thể nguyên văn, hoặc thay đổi chút ít cách diễn tả trong sách mẫu. Theo giáo viên, việc chép (đúng ra là học thuộc) giúp học sinh quen với các ý cần có đối với từng đề. Làm bài, học sinh có thể thêm ý mới (?), nhưng không được bớt các ý soạn sẵn, coi như chuẩn mực. Cách học này đạt độ an toàn trong thi cử. Điều đáng quan tâm, tuy đây là một trường hợp cụ thể, nhưng chắc chắn không phải cá biệt, sẽ có hàng ngàn giáo viên khác cũng sử dụng biện pháp an toàn này, cho dù có khác chăng nữa, thì mọi con đường đều dẫn tới Rôma, tức là bằng cách nào đó bắt học sinh nắm thật vững và dàn ý thật đúng với các phần của bài mẫu.

c. Nghĩ về bao cấp tư tưởng trong nhà trường :

-Bao cấp tư tưởng nói chung. Đã xa rồi thời kỳ mà nhìn đâu cũng thấy toàn kẻ thù, bởi thế cần phải bao cấp tư tưởng. Chủ trương đó đã dẫn tới việc phủ nhận trắng mọi sự hiện diện phi truyền thống, cũng như mọi giá trị phi truyền thống, Tự Lực văn đoàn chẳng hạn. Tôi còn nhớ trong lớp bồi dưỡng sư phạm dành cho giáo viên miền Nam lưu dụng, một giảng viên đã đọc hai câu thơ của Hàn Mặc Tử:

Trăng nằm xóng xoải trên cành liễu
Đợi gió động về để lả lơi.

Đọc xong, ông dừng lại, nhìn suốt lượt học viên, và sau đó, sự dốt nát đã hiện rõ trên nụ cười ngạo mạn.

-Và bao cấp tư tưởng trong nhà trường.

Bao cấp tư tưởng trong nhà trường xin hiểu nôm na là: sách vỡ, thầy cô cấp phát tư tưởng trọn gói cho học sinh, học sinh chỉ việc thụ động lãnh nhận để trang bị cho kỳ thi tốt nghiệp. Nói khác đi: sách vở, thầy cô đã suy nghĩ hộ các em, nhiệm vụ của các em đơn giản là: nuốt vào rồi lại nhả ra trọn vẹn, không cần tiêu hoá, để làm thành một thứ dưỡng chất mới, thấm vào máu thịt.

Vì sao phải bao cấp tư tưởng?

Bao cấp tư tưởng trong nhà trường thực ra nhằm mục đích an toàn trong thi cử là chính.
Xin nhắc lại lời một giám khảo môn văn kỳ thi tuyển sinh đại học: “việc chấm văn bây giờ rất chặt chẽ và khoa học, với thang điểm chi ly, chỉ cần đầy đủ các ý là sẽ được điểm cao”. Cách chấm thi như vậy, tất yếu đặt người dạy vào tư thế chẳng đặng đừng: nhồi nhét cho học sinh các bài mẫu, với đầy đủ các ý nằm trong quy hoạch. Như thế, bài mẫu trong bất cứ sách nào, của bất cứ thầy cô nào e rằng cũng được đúc ra từ cùng một khuôn. Nhưng thế nào là đầy đủ các ý? Trong tư duy văn học, ai là người cuối cùng có khả năng và thẩm quyền để khẳng định: bài này có 11 ý, bài kia có 9 ý, bài nọ có 12 ý. Nên nhớ, đối với các thực tại mang tính nhân văn, từ góc độ nhất định, chúng ta chỉ có thể phát biểu một cái nhìn phiến diện. E rằng chỉ họ hàng nhà ếch mới dám vỗ ngực đã thấy hết bầu trời.

Tôi có cảm tưởng chúng ta đang đổ bột vào một loạt khuôn để trước mặt, dập một cái, xuất xưởng ra một “mẻ” cô tú, cậu tú, rồi lại dập cái nữa, xuất xưởng một “mẻ” cô cử cậu cử. Nói vậy có vẻ xúc phạm các em. Thật ra không thể phủ nhận, trong số sinh viên, học sinh tôi từng tiếp xúc, vẫn thấy không ít em thực sự trưởng thành, với lối suy nghĩ có chiều sâu, với cách sống vẫn luôn tôn trọng những nề nếp, giá trị cố hữu, nhưng theo tôi, đạt được điều đó, chính là nhờ không khí gia đình và sự vận động tự thân, chứ hoàn toàn không hưởng lợi được gì (mà lẽ ra các em có quyền được hưởng) qua cung cách dậy văn kiểu này.

d. Và cái giá phải trả:

Mục đích giúp học sinh thi đậu là hoàn toàn đúng đắn, nhưng phương pháp thực hiện lại sai, vì sai nên có cái giá phải trả:

Hậu quả đối với bản thân học sinh:

-Học sinh chưa bao giờ thực sự là chính mình, mà chỉ là cái bóng của sách vở, của thầy cô, và nếu nếp sống tinh thần này kéo dài, các em sẽ là đứa trẻ chung thân vị thành niên. Tình trạng bao cấp tư tưởng trong học đường, phản ánh một nỗi lo nào đó, nhiều khi vu vơ, chỉ có hại, hoặc ít ra lợi bất cập hại.

-Trong kỳ thi tốt nghiệp, chúng ta không ít lần phải cười ra nước mắt khi bắt gặp những quái thai. Sở dĩ có tình trạng này vì thí sinh lười không học bài mẫu, hoặc học mà lệch tủ. Một khi không có thầy cô bên cạnh để nghĩ hộ, quái thai chắc chắn sẽ xuất hiện. Chúng ta sai vì chưa bao giờ giúp học sinh tự thân trưởng thành về mặt tư duy. Chúng ta sai vì cách giảng dạy gượng ép, sáo mòn. Chúng ta sai vì chưa giúp các em phát hiện ra vẻ đẹp thật sự có trong tác phẩm, chứ không ép tác phẩm phải hay, phải đẹp vì đã được kiểm dịch và dán mác. Nhìn chung lối giảng dạy ấy tạo ra bầu không khí nhàm chán, khiến các em thờ ơ trong học tập. Chúng ta có quá nhiều khẩu hiệu, và có hẳn một nền văn chương khẩu hiệu ngoài xã hội cũng như trong nhà trường, thứ văn chương nhạt nhẽo, vô tích sự, chắc chắn không thể đánh động lòng người.

Hậu quả đối với xã hội:

Dù muốn, dù không cũng phải nhìn nhận: con người trước hết là một động vật, nó tất yếu có bản năng của một động vật, nhưng tư duy biện biệt, có thể phát triển trong môi trường giáo dục, là một khả năng đặc hữu, chỉ con người mới có, nhờ đó chúng ta không chỉ sống theo bản năng, mà còn làm chủ bản năng, khống chế được những hành vi phi nhân bản. Một khi bao cấp tư tưởng trong giảng dạy văn học làm thui chột lý trí, làm thui chột khả năng phán đoán, suy luận, khiến cho cái đúng, cái đẹp vắng mặt trong đời sống tinh thần, thì chúng ta đang vô tình đưa con người trở về mức độ sinh vật hạng hai, và như thế, tất yếu bản năng cầm thú sẽ nổi dậy. Hiện tượng học sinh đâm chém nhau, học sinh trở thành kẻ cướp, hiện tượng tuổi teen không định hướng, sống buông thả, sa đọa, chỉ nghĩ tới việc thỏa mãn những đòi hỏi vật chất, giới tính, đã trở thành mối lo chung. Tôi có bi quan và phóng đại quá không?

Viết bài này, tôi mong đón nhận phản biện của người trong cuộc, tức các đồng nghiệp, để thấy rằng mình đã phiến diện, đã hiểu sai, và như thế vẫn còn hy vọng.


Monday, October 22, 2007

Thói quen đối phó


Vũ Lưu Xuân

Đối phó là một khả năng ưu việt, giúp một dân tộc, một tập thể, một cá nhân tồn tại trước muôn vàn khó khăn, bất trắc luôn luôn vây bủa chung quanh. Không có khả năng đối phó, chúng ta sẵn sàng buông xuôi, đầu hàng, cam tâm để mặc lịch sử, để mặc dòng đời cuốn trôi. Một quốc gia không có khả năng đối phó với địch họa, chắc chắn sẽ bị nhấn chìm trong vòng nô lệ. Một chính quyền không có khả năng đối phó, chắc chắn sẽ phải đương đầu với những khủng hoảng triền miên về mọi mặt. Ở phạm vi hẹp, một cá nhân nếu không có khả năng đối phó, sẽ lúng túng, bị động trước những tình huống bất ngờ, và chắc chắn sẽ thất bại. Như vậy, hành vi đối phó có một giá trị tích cực, giúp cá nhân và cuộc sống thăng hoa. Nhưng không hiểu từ lúc nào, nội hàm của từ đối phó đã biến dạng và được mở rộng theo hướng tiêu cực, đồng nghĩa với luồn lách, với thủ đoạn bất chính, chỉ nhằm mục đích tạo ra thứ áo giáp an toàn, để thảnh thơi và vô tư thủ lợi. Và cũng không hiểu từ lúc nào, thật buồn, một phần trong chúng ta, giữa đời thường, đã vô tình nhiễm thói quen xấu đó, coi nó như một phương cách tự vệ cần thiết để đương đầu với tập thể, với cộng đồng, kể cả với bạn bè và người thân, mà lẽ ra phải thành thật và chan hòa, từ đó cuộc sống bỗng chốc trở thành một môi trường đầy ắp đố kỵ, lừa lọc, và không khí bỗng chốc đặc quánh chất giả hình.

Viết bài này, xin suy nghĩ về hai chữ đối phó theo nghĩa mới phát sinh, nghĩa xấu.

Những năm gần đây, báo chí đăng tải nhiều phương cách đối phó thật lạ lùng, mà đầu óc con người có thể nghĩ ra. Đối phó với việc đền bù giá thấp, người dân một tỉnh miền Trung đã lấy sơn vẽ lung tung những hình trang trí lòe loẹt trên tường, để được đền bù với giá cao hơn. Đối phó với việc thanh tra, không ít cán bộ các cấp đã tìm mọi cách tiêu huỷ hồ sơ, thậm chí đốt cả văn phòng, đốt cả cơ quan. Đối phó với ngành thuế vụ, các doanh nghiệp sẵn sàng lập hai hệ thống sổ sách chứng từ kế toán. Đối phó với người tố giác tiêu cực, lãnh đạo không ngần ngại trù dập, thậm chí hành xử theo luật giang hồ. Cũng có khi Nhà nước và nhân dân tìm cách đối phó với nhau, chẳng hạn như, Nhà nước bất lực trước tình trạng ùn tắc giao thông đã đối phó bằng cách cấm đăng ký xe gắn máy, và nhân dân đối phó lại bằng cách luồn: về tỉnh đăng ký rồi chạy lên thành phố, vô tư sử dụng, v.v. và v.v. Có thể nói, hễ có một quy định đưa ra là lại kéo theo một biện pháp đối phó thiếu minh bạch.
Nguyên nhân dẫn đến hành vi đối phó. Nguyên nhân đầu tiên là những quy tắc pháp luật chưa hoàn thiện, còn nhiều khe hở để cả trên lẫn dưới rủ nhau cùng luồn, đồng thời, trước những rối rắm của cuộc sống đang ào ào chuyển mình, chúng ta chưa tìm được biện pháp khả thi, thường thì chưa lần tới cái gốc để giải quyết triệt để vấn đề, mà chỉ muốn đi tắt bằng cách ngắt ngọn. Tuy nhiên theo tôi, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thói quen đối phó một cách không trong sáng, chính là vấn đề đạo đức xã hội đang từng bước bị xói mòn, từ đó tác động trực tiếp đến con người, khiến con người, muốn tồn tại, càng ngày càng thiếu trung thực, và trong lúc pháp luật chưa có các biện pháp chế tài thật sự công bằng và hợp lý, thì con người, bằng mọi giá, càng ngày càng, bất chấp thủ đoạn, tung hoành, tìm cách đối phó, để vun vén cho lợi ích cá nhân.

Tác hại của hành vi đối phó. Trong môi trường sống mà óc sáng kiến cần phải và cũng luôn có cơ hội đẻ ra muôn vàn mẹo vặt, bất chính, thì chúng ta, một cách tiệm tiến và vô thức, mỗi lúc một sống thiếu tình người, một giả trá, dối trên, lừa dưới, và hèn dần đi, từ đó xã hội phút chốc trở thành một thứ vũ hội hoá trang, mà ở đấy chiếc mặt nạ nào nhìn bề ngoài cũng tưởng lầm là đẹp, mà người nào cũng đáng được tuyên dương, đáng được lĩnh giấy khen. Hơn nữa, trong môi trường luôn luôn đòi hỏi phải gằm ghè toan tính, thủ thế, căng thẳng, con người, một khi gặp dịp, dễ trở nên tàn bạo, bất nhân đối với kẻ… yếu hơn, rồi cứ thế diễn ra cảnh cá lớn nuốt cá bé, thượng đội, hạ đạp, rồi cứ thế diễn ra cảnh chèn ép, trù dập, huỷ diệt lẫn nhau. Chúng ta từng thấy nhiều người trong đời thường rất hiền lành, hoà nhã, nhưng một khi đã vào guồng, cũng sẵn sàng xuống tay tàn độc. Chẳng lẽ cuộc sống lại đáng buồn thế sao?

Lướt qua phạm vi giáo dục, gần đây đã có nhiều chị đạo nhằm chấn chỉnh các tệ nạn, nhưng cũng chính vì thế mà hành vi đối phó lại được dịp biến hoá và xuất hiện tràn lan. Nếu không được chặn đứng, nó thực sự là một nguy cơ đối với chặng đường phát triển bền vững của đất nước.

Đứng trước chỉ thị cấm lạm thu, ban giám hiệu một số trường đã dùng Hội Phụ huynh như một cánh tay nối dài, để đối phó với sở, bộ và các bậc cha mẹ, nhằm hợp thức hoá những khoản thu phi pháp, dưới danh nghĩa đóng góp tự nguyện (xem bài “Nóng” v/đ ban Đại diện phụ huynh, báo Người Lao Động 23.10.2007), hoặc sẵn sàng đặt sở, bộ trước những sự việc đã rồi (cụ thể vụ 18 trường ở Đà Lạt). Để đạt thành tích, có hiệu trưởng, giáo viên sẵn sàng đối phó bằng cách sửa điểm kiểm tra (trường hợp bà Trần Thị Thu Hà trường PTCS Liên Đầm, Lâm Đồng) . Để đạt thành tích trong kỳ thi tốt nghiệp, thay vì học thật, nhiều trường đã đối phó bằng cách học tủ, học vẹt, bắt chấp hậu qủa của biện pháp phản giáo dục này. Để đối phó với việc lên lớp, một số thầy cô đã thản nhiên đi chợ giáo án, hoặc phô tô tài liệu có sẵn của các bậc đàn anh (xem Vietnamnet 8, 10, 12.10.2007). Để đối phó với học sinh phá phách, một vài thầy cô né tránh không trực tiếp đánh đòn, mà cho bạn bè tát nhau. Để đối phó với việc kiểm tra, nhiều học sinh tích cực quay cóp một cách khéo léo, từ đó tạo ra những lỗ hổng kiến thức. Để đối phó với việc cấm đi xe phân khối lớn, nhiều học sinh gửi xe chỗ khác, rồi đi bộ tới trường, v.v. và v.v.

Điều đáng lưu ý là hầu như tất cả các cố gắng hiện nay của ngành giáo dục mới chỉ xoay quanh vấn đề chất lượng, mà thả nổi, hoặc chưa có biện pháp hữu hiệu để xoáy vào công tác đào tạo những lớp người có phẩm chất đạo đức. Thật ra, trong giáo dục, cung cấp kiến thức thực tiễn, để áp dụng trong mọi phạm vi hoạt động, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, là cần, nhưng rèn luyện chất người cũng là điều là quan trọng không kém, đặc biệt trong giai đoạn đạo đức xã hội đang xuống cấp thấy rõ hiện nay.

Nên nhớ rằng, một đất nước có số học sinh thi đỗ tốt nghiệp cao, có một đội ngũ đông đảo kỹ sư, các nhà khoa học, chưa hẳn là một nước có nhiểu nhân tài, một cơ quan có nhiều cán bộ đạt trình độ đại học và trên đại học chưa hẳn là một cơ quan có nhiều người giỏi, thực sự hữu dụng, một khi thành qủa đạt được phần lớn dựa và thủ đoạn đối phó, và như thế cũng chẳng có gì đáng để khoe khoang, hãnh diện với bè bạn năm châu.

Lại cũng nên nhớ rằng, vấn đề nhân sự quyết định thành công mọi chính sách, nếu chúng ta chỉ đào tạo được những con người, những thế hệ có nhiều thủ pháp đối phó, thì mong gì đưa đất nước đi lên.

Sự kiện Chosun- Nghĩ về tình tự dân tộc

Vũ Lưu Xuân

Bài được viết ngày 17.5.2006, nhưng buồn thay, có lẽ năm bảy năm nữa vẫn mang đậm chất thời sự.

Sự kiện bài viết có ảnh minh họa trên báo Chosun (21.4.2006) đã làm dấy lên làn sóng phẫn nộ. Báo chí lên tiếng, dân chúng lên tiếng, đoàn thể lên tiếng, cả chính quyền đôi bên cũng lên tiếng. Đó là việc làm hoàn toàn chính đáng, vì nó đụng chạm đến thứ tình cảm thiêng liêng: lòng Tự ái dân tộc. Dù còn nghèo, nhưng nhân dân Việt Nam không thể để cho người nước khác, dù là một số nhỏ, vô tình hoặc cố ý xúc phạm đến nhân phẩm, cụ thể là phụ nữ, đồng hóa họ với món hàng có thể ngã giá bằng tiền.

Nhưng tôi vẫn băn khoăn: phẫn nộ vì Tự ái bị tổn thương tuy chính đáng, nhưng hình như chưa đủ, hình như có cái gì đó phải được nhìn sâu hơn, đẩy xa hơn, giải quyết triệt để hơn. Và vấn đề được đặt ra:

Theo tôi, Tự áiTự trọng là hai mặt của tình tự dân tộc. Tự ái là mặt tiêu cực, thụ động, nó chỉ bừng bừng nổi lên mãnh liệt khi bị tổn thương. Còn Tự trọng, thậm chí Tự tôn , ở mức độ cao hơn, là mặt tích cực, chủ động, nó khiến người dân một nước nỗ lực chỗi dậy trong cảnh tối tăm, và chỗi dậy sau mỗi lần ngã xuống, từ đó không tạo cho đối phương bất cứ cơ hội nào có thể xúc phạm đến dân tộc mình. Muốn được người trọng, trước hết phải biết trọng chính mình.

Đọc báo Chosun, nhiều người đã ray rứt, mất ngủ cả đêm, có thể là hai ba đêm, điều đó cần, chứng tỏ chúng ta chưa chai sạn đến mức vô cảm, nhưng chưa đủ, chúng ta buộc phải mất ngủ hàng ngàn đêm, thậm chí hơn nữa, cho tới khi cái nguyên nhân tạo nên điều ô nhục được giải quyết dứt điểm. Nguyên nhân đó là gì? Luận án thạc sĩ của ông Hà Minh Thành Nghiên cứu về vấn đề kết hôn với người nước ngoài giữa Việt Nam và Hàn quốc đề cập tới ba loại: “Korean dream”, “lý do kinh tế” và “tác động của trào lưu văn hóa Hàn Quốc”. Tôi tự hỏi: tại sao có “Korean dream”, mà không có “Việt dream”? Tại sao “tác động của trào lưu văn hóa Hàn Quốc” đối với chúng ta lại mạnh đến thế? Thêm nữa, một đất nước tiếp thu thụ động văn hóa nước ngoài, tất phải có một lỗ hổng văn hóa, đây cũng là vấn đề cần đem ra bàn. Nhưng nguyên nhân khiến tôi chú ý nhiều nhất, đó là “lý do kinh tế”, rõ hơn: sự đói nghèo - vấn đề xã hội. Xin lưu ý một điều quan trọng: sau cái đêm mất ngủ vì sốc, nếu chúng ta chẳng làm gì, hoặc chỉ làm chiếu lệ, thì cuối cùng cũng chỉ là thứ Tự ái theo kiểu phong trào, đi kèm với lòng yêu nước theo kiểu phong trào.

Tôi nhớ không rõ lắm, cũng thời gian này năm ngoái, vụ các cô gái Việt Nam bị trưng trong tủ kính để chào hàng ở Singapore, đã khiến chúng ta cực kỳ phẫn nộ, và trước nữa, khoảng chục năm cho đến tận bây giờ, làn sóng lấy chồng Đài Loan tại các tỉnh miền Tây, cũng đã được đặt thành vấn đề một cách nghiêm túc. Nhưng từ đó đến nay, hơn chục năm rồi, cái gốc xã hội của vấn đề đã được giải quyết tới đâu, chúng ta có quyền nghi ngờ tác dụng của một vài đêm mất ngủ vì sốc, và cũng có quyền nghi ngờ thứ Tự ái theo kiểu phong trào. Những phản ứng không đi kèm với việc làm tích cực, thực chất có đem lại kết qủa nào không?

Tôi vẫn tự hỏi, nước Nhật sau Thế chiến thứ hai đã làm gì để ngày nay có thể tự hào đến thế? Tôi không phải là nhà sử học, nên không nghiên cứu kỹ nguyên nhân. Tôi chỉ mơ hồ biết rằng nước Nhật cũng đã phải vay tín dụng nước ngoài, dân Nhật cũng đã chịu nhiều điều tủi nhục, nhưng hình như họ không chỉ la lớn lên để thể hiện sự phẫn nộ, mà quan trọng hơn, bên cạnh những quyết sách thích hợp, họ còn biết cúi đầu cắn răng, nuốt hận, cùng nhau một lòng, thắt lưng buộc bụng, xây dựng đất nước, để bây giờ con cháu họ có thể ngẩng cao đầu nhìn khắp năm châu. Người Nhật hình như không chỉ biết tự ái vặt, mà hơn thế nữa, họ biết tự lực, tự cường, tự trọng và tự tôn. Và khả năng của người lãnh đạo tập trung được ý chí của toàn dân, cũng là điều rất đáng quan tâm.

Tôi thích la cà quán xá cấp thấp, để gặp gỡ những mảnh đời. Tôi đã gặp các thiếu nữ mà lớp phấn son với chiếc áo hai giây chưa thể che hết nét ngây thơ, pha lẫn cay đắng của một thiếu nữ chân quê ngượng ngùng, lòng đầy mặc cảm. Tôi đã được nghe những lời tâm sự, những ước mơ rất thật: một mái nhà, một người chồng biết yêu thương với một vài đứa con. Họ muốn được đi chợ, làm bếp, giặt giũ áo quần, thay vì bẹo hình, bẹo dạng trước những bộ mặt nham nhở, cái duy nhất bộ mặt ấy có là tiền kèm cặp mắt thấp hèn, và thêm nữa, chẳng bao giờ các cô gái ấy còn phải ấp úng gọi những người đáng tuổi ông nội bằng anh, những ước mơ thật tầm thường mà lại qúa đỗi xa vời. Tôi đã được xem những tấm ảnh gia đình, nằm trang trọng giữa cuốn album bèo nhèo, theo chân cô gái trong từng bước phiêu lưu, ở đó, tôi thấy những người nông dân còm cõi, những đứa trẻ nhếch nhác đứng trước căn nhà lụp xụp, đúng hơn là một cái chòi. “Ba cháu đó, còn đây là con Tư, thằng Út”, những đứa bé thuộc diện phổ cập tiểu học, thậm chí trung học mà vẫn không biết chữ. Tôi biết có cô gái không thể kiếm nổi 300.000 để giải quyết vấn đề sinh tử, nên đã nhắm mắt đưa chân, hoặc vay nợ giang hồ, rồi cũng nhắm mắt đưa chân. Tôi biết có cô gái, sau khi khám phá ra thành phố không phải là nơi dễ kiếm chút đỉnh tiền còm, phụ giúp gia đình, lại càng không phải là cõi thiên đường, nhưng đã không kiếm đủ số tiền nho nhỏ, mua vé trở về quê, yên phận. Từ nạn nhân, phút chốc họ có thể biến thành tội nhân, nhưng trước hết họ là con em ta đó. Buồn thay, chỉ cần bớt đi một Bùi Tiến Dũng, là hàng chục ngàn cô gái có thể thoát kiếp long đong, nhưng chẳng biết Bùi Tiến Dũng có bao nhiêu anh em ruột thịt ở đất nước này. Tôi thấy mình bất lực giữa trùng trùng cảnh ngộ, và rất kinh hãi những tay đạo đức giáo điều, kinh viện, có khối óc mà không có trái tim, thậm chí khối óc chỉ nhỏ bằng hạt đậu, nhưng cũng chẳng biết dùng để làm gì, trong khi những lời kết tội thuộc lòng lại luôn luôn thập thò ở cửa miệng đã được bôi trơn. Chúng ta đang mòn dần đi, rồi chết ngộp trong một thế giới giả hình.

Từ hình ảnh 11 cô gái đang hồi hộp với ước mơ thoát khỏi cái nghèo trên báo Chosun, những cô gái tuy biết, nhưng vẫn cắn răng dấn mình vào cuộc phiêu lưu, trong nhờ đục chịu, mà đục chắc hẳn đến chín chục phần trăm, tôi chợt nhớ đến hình ảnh các ông bố giấu bom tấn trong gầm giường, để cưa lấy đồng và thuốc nổ. Họ đâu ngu đến nỗi không biết mối nguy hiểm đang rình rập vợ con, nhưng ở đời không gì tệ hơn cái đói. Xin đừng vội kết án một khi chưa chỉ cho họ lối thoát khả thi.

Chúng ta tự ru ngủ mình về mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người cao ngất ngưởng, trên 8%, vậy tại sao Việt Nam vẫn bị xếp vào hàng ngũ các nước nghèo? Thực chất là bao nhiêu phần trăm dân chúng được hưởng tỷ lệ tăng trưởng nêu trên? Còn bao nhiêu phần trăm đang phát triển theo hướng âm? Tức là tiền bạc mất trắng, còn cõng thêm một gánh nợ nần. Trước mắt chúng ta vẫn có những nông dân phải bán sạch tài sản trả nợ ngân hàng, vì trót tham gia vào những kế hoạch thi đua “chuyển đổi” thiếu một tầm nhìn, thậm chí thiếu cả cái tâm trong sáng, những kế hoạch phần nào đó chỉ nhắm mục đích đóng thêm cái chân thứ năm cho chiếc ghế chỉ chực lung lay.

Nhìn vấn đề tới tận cội nguồn nhiều khi khiến ta lạnh gáy, lạnh gáy mà vẫn phải nhìn, vì con người không thể là giống đà điểu giấu đầu trong cát. Viết tới đây, tôi chợt nhớ đến một án lệ thời Tự Đức. Ông bố bị bỏ rơi, đói ăn, tới trộm khoai mì tại vườn nhà chính đứa con ruột. Thằng con mất trộm nhiều lần, cố công rình bắt. Một đêm tối, vớ được gã ăn trộm trong vườn, vì không biết đó là bố mình, thằng con vác hèo đập chết. Quan án xử theo tội ngộ sát, Tự Đức duyệt án, giáng chức viên quan, đồng thời ghép thằng con tội bất hiếu, không phụng dưỡng cha già, để đến nỗi cha trở thành tên trộm. Tôi yêu tính triệt để và chất nhân bản của Tự Đức, ông vua phong kiến mà công, tội vẫn chưa được phán xét rạch ròi.

Giá có một ngày nào đó, các cô gái mơ chuyện lấy chồng xa xứ, các cô gái hớt tóc, cà phê, lòng đầy mặc cảm và rất dễ buông xuôi, có thể thực hiện được ước mơ giặt giũ, thổi cơm, thanh thản chờ người đàn ông thân yêu đi làm về, chờ những đứa con ngoan ngoãn đi học về, ngày ấy những người có lương tri mới có thể ngủ yên, khỏi giật mình vì những cú sốc, khỏi nổi giận đùng đùng vì tự ái nhất thời bị tổn thương. Đó là ngày những vấn đề xã hội nhức nhối đã được giải quyết ổn thỏa.

Wednesday, October 17, 2007

Sáng tạo, một đòi hỏi của giáo dục

Vũ Lưu Xuân

Trong đời thường, tất cả chúng ta đều không ít lần phải đối mặt với những tình huống chưa hề được dự liệu trước, và giải pháp đôi khi lại nằm ngoài kiến thức sách vở, nằm ngoài những kinh nghiệm đã tích lũy sau nhiều năm. Gặp trường hợp đó, óc sáng tạo giúp đưa ra một lối thoát khả thi. Như vậy, óc sáng tạo là phẩm tính tối cần cho cuộc sống, nó giống một vũ khí xung phá, giúp chúng ta vượt khỏi bế tắc, để vươn tới thành công.

Viết bài này, tôi không nhìn óc sáng tạo dưới góc độ thần thoại, coi nó như thuộc tính đặc hữu của Thượng đế và thần linh, đã được á thần Prometheus đánh cắp và ban cho loài người. Tôi cũng không nhìn nó dưới góc độ triết học theo kiểu Sigmund Freud, khi ông bàn về phạm trù sáng tạo trong nghệ thuật, coi như một biện pháp nhằm thoả mãn ước muốn đơn thuần, và là một cách thế thoát ly thực tại. Nói chung những góc nhìn này mặc nhiên biến sáng tạo thành một thực thể cao siêu, phức tạp và ghê gớm lắm.

Ở đây, chúng ta chỉ nhìn óc sáng tạo dưới dạng một kỹ năng tuy ưu việt, nhưng phổ quát, tức mọi người, tùy mức độ, đều có, và đều có thể rèn luyện, nâng cao, một khi biết khai mở cho nó đường dẫn để nẩy mầm, lớn lên. Và như thế, nhà trường, trong chiều hướng phát triển con người toàn diện, không thể chối từ bổn phận rèn luyện óc sáng tạo cho học sinh, qua đó cung cấp cho họ một hành trang thiết yếu để vào đời, để ứng phó, và để khỏi vấp ngã một cách đáng tiếc vì căn bệnh ấu trĩ.

Xin nói loanh quanh một chút. Người Việt chúng ta thông minh thì có thừa, nhưng óc sáng tạo thì lại thiếu, đó là hậu quả tất yếu của tình trạng nô lệ tệ hại về mặt tinh thần, của nền giáo dục nhai văn nhá chữ từ ngàn năm. Việc đề cao đức tính kẻ hậu học theo thầy hàm chứa một mặc cảm tự ti, hàm chứa một thói quen bước đi trong lối mòn, khước từ cách nhìn mới, sáng tạo, và như thế, chúng ta suốt đời chỉ có thể làm đứa học trò chăm, ngoan của người ta. Việc xây dựng một quan niệm khập khiễng về kẻ sĩ theo hình mẫu Trung Hoa; việc cớm nắng dưới cái bóng quá lớn của Đức Phu Tử, khiến chúng ta mất đứt một nghìn năm ngụp lặn trong vũng tù đọng của tri thức. Hậu quả là, suốt chiều dài lịch sử thời phong kiến, những nhà tư tưởng thực sự lớn, cụ thể như Chu Văn An, Lê Quý Đôn, đặc biệt là Nguyễn Trường Tộ, chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

Một nghìn năm trước là thế. Còn bây giờ? Xin trở lại vấn đề sáng tạo trong giáo dục.

1. Sáng tạo, phác họa một cách nhìn

Xin lưu ý điểm xuất phát của sáng tạo:

Sáng tạo xuất phát từ nhu cầu: nhu cầu hiểu biết, nhu cầu mưu sinh thoát hiểm. Nhu cầu kích thích trí tò mò, từ đó khám phá ra những cái mới cung ứng cho cuộc sống mỗi ngày một nâng cao, từ đó tìm ra biện pháp mới giải quyết mớ bòng bong của đời thường. Làm thui chột óc sáng tạo là mặc nhiên giết chết tính tò mò khoa học, là mặc nhiên biến cuộc đời thành tẻ nhạt, nhàm chán.

Một số đặc tính của sáng tạo:

-Sáng tạo là một thuộc tính đặc biệt của con người, giúp chúng ta vượt lên trên tất cả các loài động vật hạng hai, tuy nhiên nó không phải là khả năng thiên bẩm, dành riêng cho một số ít cá nhân ưu tú, mà là một tập tính có thể rèn luyện được.

-Sáng tạo là thoát ra khỏi lối mòn, là phá vỡ những cái hiện có nhưng đã lỗi thời, không đáp ứng được những chuyển biến mới phong phú hơn, từ đó đưa ra một cái nhìn mới phi truyền thống, chẳng hạn đánh giá lại một đề tài văn học.

-Sáng tạo là tìm ra một phương án mới, một cách giải quyết mới, cho một bài toán chẳng hạn.

-Sáng tạo không đến từ hư vô, mà là sự phối hợp mới của những yếu tố cũ, tức kiến thức thủ đắc, kế thừa, như vậy người càng tính lũy được nhiều yếu tố cũ, càng có cơ may nhiều hơn trong việc sáng tạo ra cái mới.

Điều kiện của sáng tạo:

Tư tưởng chỉ có thể vùng vẫy, phát triển khi có một khoảng trống trước mặt, và điều kiện tiên quyết của sáng tạo là tự do. Một khi đã quan niệm rằng chỉ có ta là duy nhất đúng, tuyệt đối đúng, thì đã mặc nhiên khép lại một chiều của tư duy, vì ở đó có một ranh giới không cần vượt qua và cũng không được phép vượt qua.

-Óc sáng tạo đồng hành với lòng can đảm, và ước muốn thoát ra khỏi sáo mòn. Người có óc sáng tạo không sợ bị phản bác, bị trù dập, bị điểm xấu, bị đánh rớt chẳng hạn.

-Óc sáng tạo phát triển từ thói quen suy luận, thói quen đặt vấn đề, và tìm ra giải pháp, nó không đồng hành với tính lười biếng và ỷ lại, há miệng chờ mớm cơm. Người có óc sáng tạo không cam tâm đưa tay cho người khác dắt như một đứa trẻ chung thân vị thành niên.

2. Quy chiếu về nền giáo dục hiện hành.

Kể từ khi ông Nguyễn Thiện Nhân lên nắm Bộ GD&ĐT, chúng ta thực sự đã có nhiều tín hiệu đáng mừng. Đối với một nền giáo dục mà đụng bất cứ cái gì cũng thấy rối tung lên, thì việc tháo gỡ từng mảng, từng phần là biện pháp cải cách hợp lý và khoa học. Tuy nhiên di sản nặng nề của những sai lầm quá khứ hàng chục năm, không thể đòi hỏi cải thiện trong một sớm một chiều, có lẽ vì thế, chúng ta thấy vẫn còn nhiều điều buộc phải suy nghĩ.

Tuy không cổ võ tinh thần tự do vô điều kiện, nhưng trong nền giáo dục hiện hành, chúng ta thấy vẫn còn tồn tại rất nhiều điều không thể hiểu được:

-Về sách giáo khoa. Sách giáo khoa được minh nhiên hay mặc nhiên coi là pháp lệnh. Nhưng một khi đã coi sách giáo khoa là pháp lệnh, mà cả thầy lẫn trò đều phải tuyệt đối phục tùng, kể cả khi sách giáo khoa còn bộc lộ sai sót, thì chúng ta đã bắt đầu đi vào con đường một chiều của tư duy, cho dù con đường đó rộng hay hẹp. Có lẽ chỉ nên coi sách giáo khoa như pháp lệnh, một khi trình độ của cả thầy lẫn trò còn thấp, chưa kịp trưởng thành, đặc biệt khi người thầy còn yếu về trình độ và nông về kiến thức, phải mượn sách giáo khoa làm chỗ dựa duy nhất để tự trấn an. Cần thấy rằng sách giáo khoa chỉ là phương tiện khai mở kiến thức, nên không thể hạn chế tri thức và tư duy. Thói quen vâng phục tất yếu đẻ ra mặc cảm tự ti. Và mặc cảm tự ti tất yếu đẻ ra tính lười biếng về mặt tinh thần.

-Về cách chấm bài, đặc biệt là bộ môn khoa học xã hội, trong đó có văn. Tôi đã bỏ nghề dạy học cách đây đúng 26 năm, bởi thế có những góc khuất không nắm hết, hoặc hiểu sai, nhưng có một người bạn chấm tuyển sinh đại học cách đây ít năm cho biết: việc chấm văn bây giờ rất chặt chẽ và khoa học, với thang điểm chi ly, chỉ cần đầy đủ các ý là sẽ được điểm cao. Nếu lời nói đó phản ánh trung thực cách chấm điểm môn văn hiện thời thì quả thật đáng buồn. Tại sao lại thế nhỉ? Tại sao một bài văn lại bắt buộc phải đầy đủ ý này, ý kia, mà không thể có ý khác. Phải chăng chúng ta đang cố gắng đào tạo nhân tài theo kiểu dây chuyền, trăm hoa đều nở ra cúc vạn thọ. Chấm thi kiểu ấy, mà lại đòi học sinh phải có tư duy độc lập và sáng tạo, thì quả thật là không tưởng..

-Về cách giảng dạy: Mấy năm gần đây, chúng ta luôn hô to những khẩu hiệu đả phá lối học tủ, học vẹt. Đúng đó, học tủ, học vẹt hủy hoại sức sáng tạo, giết chết tự do tư duy, gây ra không khí nhàm chán, khiến học sinh không còn coi việc học như một thú vui bổ ích. Trong phạm vi học đường, truyền thụ kiến thức là ưu tiên hàng đầu, nhưng cần mà chưa đủ, chúng ta còn phải huấn luyện khả năng tự học, tự vận dụng tri thức, và phương pháp tư duy đối với từng bộ môn, đó là cái hữu dụng còn đọng lại, sẽ theo chúng ta đến hết cuộc đời, sau khi những kiến thức cụ thể, nếu không có cơ hội sử dụng, sẽ dần dần rơi rớt với tháng năm. Nếu chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức theo kiểu học nhồi, học vẹt, tức là chúng ta đang dừng lại ở mức huấn luyện động vật cấp hai trong một gánh xiếc. Với cách học học tủ, học vẹt, óc sáng tạo của học sinh đã thực sự bị trói và mòn dần đi. Có điều, với cách dạy, cách học đã trở thành nếp quen từ nhiều năm qua, nhà trường hình như chưa tìm được biện pháp khả thi hơn, giúp học sinh đậu tốt nghiệp với số lượng cao. Ước muốn có nhiều học sinh đậu là một ước muốn chính đáng đối với nhà trường và mọi phụ huynh, nhưng từ ước muốn chính đáng, chúng ta không ngại dùng mọi thủ thuật thì cái giá phải trả là quá đắt. Với những thủ thuật phần lớn phản giáo dục đó, về mặt tri thức, chúng ta chỉ có thể tạo ra những thế hệ học sinh, trừ trường hợp ngoại lệ, đa phần chỉ vật vờ như cái bóng của sách vở, của ông thầy, chẳng thể vận dụng kiến thức một cách hiệu quả vào những tình huống không phải lúc nào cũng cố định trong đời thường.

Một khi thấy được tầm quan trọng của óc sáng tạo trong việc phát triển con người, phát triển đất nước, chúng ta mong rằng các nhà giáo dục, đặc biệt là giới có thẩm quyền, có được một sách lược khoa học và dài hơi, để tạo ra những thế hệ thanh niên Việt Nam không chỉ nổi tiếng thông minh, cần cù.